15.2.08

CHÀO MỪNG THI HỮU HÀ BỈNH TRUNG


(Thân kính tặng Thi Hữu Hà Bỉnh Trung
Nhân dịp về thăm Thung Lũng Hoa Vàng ( San Jose )

Xa mặt nhưng đâu có cách lòng,
Nhớ người tri kỷ, ước cùng mong.
Hô hào Dân Chủ, thân không ngả
Tranh đấu Nhân Quyền, bút chẳng cong.
Phẫn chí toàn dân còn cũi xích,
Thương tâm cả nước vẫn cùm gông.
Trượng phu nhớ mãi câu vô úy,
Tuấn kiệt quên sao chữ bất đồng…

Quyết chẳng sờn lòng khi nắng Hạ,
Hẳn càng vững dạ lúc mưa Đông.
Lấy Thơ làm súng, trừ gông xích,
Dùng Phú thay gươm, phá cũi lồng.
Hỗ trợ Dân oan, dù vất vả,
Phù trì Tôn giáo, dẫu long đong.
Văn Nhân hoàn vũ đều trân quý,
Kiện tướng Thi tài HÀ BỈNH TRUNG

San Jose, ngày 15-02-2008
T.M. Thi Văn Đoàn BỐN PHƯƠNG
TRƯỜNG GIANG

2.2.08

VÙNG LÊN CỨU N Ư ỚC


BÀI XƯỚNG:
1/2- Vùng Lên cứu nước Việt-Nam ta,
Tổ Quốc thân yêu của mọi nhà!
Đông Hải, Hoàng-Sa: bầu sửa Mẹ;
Trường-Sa, Bản Dốc: máu tim Cha.
Rừng vàng, biển bạc dòng "Hồng Tộc",
Gấm vóc, lụa là giống "Lạc Gia".
Nhất chí toàn dân cùng đứng dậy;
Diệt tan Đảng cướp cẩu Trung Hoa.
2/2- Diệt tan Đảng cướp cẩu Trung Hoa,
Kiến thiết Quê Hương, dựng lại nhà:
Chính thể Cộng Hòa nền Độc Lập,
Tam quyền Hiến Pháp nếp Phong Gia.
Tự Do, trí thức dâng mưu đủ,
Dân Chủ, sinh viên hiến kế đa.
Già trẻ, gái trai gom ý chí;
Chung tay phát triển nước Nam ta!!!
Joseph Duy-Tâm
12-12-2007

BÀI HỌA
1/2- Vùng dậy thanh niên ! Cứu nước ta !!
Thân yêu Tổ Quốc của muôn nhà.
Trường Sa hải đảo, xương da Mẹ,
Bản Dốc biên cương, máu thịt Cha.
Biển bạc, tài nguyên nhờ kỹ nghệ,
Rừng vàng, hầm mỏ cậy chuyên gia.
Toàn dân đoàn kết xoay thời cuộc,
Nhân chủ mai này phải nở hoa…

2/2- Nhân chủ mai này phải nở hoa,
Gái trai cương quyết giữ quê nhà.
Lấy tài Hưng Đạo xây Dân Tộc,
Dùng trí Lê Vương dựng Quốc Gia.
Nước mạnh khắp nơi tôn Ngũ Phúc,
Dân giàu mọi chốn trọng Tam Đa.
Ghé vai chung sức không lùi bước,
Quyết diệt xâm lăng cướp nước ta.

16-12-07 TRƯỜNG GIANG


VẪN TÔN XƯNG

Hoan hô Thiếu Tướng Lê Văn Hưng,
Một thác năm Châu tiếng lẫy lừng.
Mất nước đó đây đều chịu khổ,
Soi gương con cháu lại riêng mừng.
Đầu thai cửa Phật vui chưa nhỉ ?
Phát súng lên Tiên đẹp quá chừng.
Hậu thế nhắc hoài trang tiết liệt,
Muôn sau đất nước vẫn tôn xưng.

10/4/2004 HUỆ THU

BÀI HỌA

Lịch sử nghìn sau phục tướng Hưng,
Năm Châu, bốn Bể tiếng vang lừng.
Kinh hoàng Quảng Trị toàn dân khổ,
Anh dũng Bình Long cả nước mừng.
Thành mất gái trai đau quá đỗi,
Đồn tan già trẻ uất vô chừng.
Hiến dâng thân xác cho Dân tộc,
Để lại muôn đời tiếng biệt xưng.

1042004 TRƯỜNG GIANG

TƯỞNG NIỆM TRƯNG NỮ VƯƠNG

1/2- Toàn quốc cung nghinh vọng nhị Trưng,
Hồn thiêng sông núi cũng rưng rưng.
Phong ba dòng Hát vang từng chốn,
Gươm giáo Mê Linh dội khắp vùng.
Thánh đức kinh hồn quân bạo ngược,
Thần uy táng đởm giặc tàn hung.
Ô danh Tô Định phường xâm lược,
Muôn thuở Anh Thư tiếng lẫy lừng.

2/2- Lẫy lừng kim cổ nhị Trưng Vương,
Chí ngút từng xanh khó thể lường.
Đất Tổ giữ gìn vùng Hải đảo,
Quê Cha bảo vệ giải Biên cương.
Diệt tên Tô Định không cam nhịn,
Đuổi gã Phục Ba, há chịu nhường.
Lãng Bạc, Mê Linh ngời chính khí,
Nghìn sau con cháu vẫn noi gương.

TRƯỜNG GIANG

TRÂU ĐỰC TÂM TÌNH.

Vì đời gian khổ xá chi thân,
Thóc gạo tràn kho Mỗ (1) góp phần.
Chẳng quản nắng mưa vì quý nước (2) ,
Không nề sương gíó bởi yêu dân.
Thương người lỡ vận thêm no ấm,
Giúp kẻ sa cơ bớt nợ nần.
Trọn kiếp nhọc nhằn không phí sức,
Lúa vàng thu hoạch chất đầy sân.

Sân trước, vườn sau lúa chật quầy,
Là nhờ công sức của ai đây?
Mưa tuôn xối xả không chùn bước,
Nắng cháy xiên khoai vẫn kéo cầy.
Trước mắt kệ thây con trạch lủi (3) ,
Ngoài tai mặc xác cái ong bay(4) .
Lo cho thiên hạ đều no ấm,
Chi xá đầu lươn lấm tối ngày .

TRƯỜNG GIANG

GHI CHÚ :
1- Tiếng Đại Danh Từ người thôn quê Miền BắcViệt Nam xưa thường dùng
2- Trâu là loài gia súc râtq thích ngâm mình dưới nước.
3- Trâu là giống gia cầm rất cần cù,không trốn tránh công viêc 5
4- Gác bỏ ngoài tai tiếng khen che của người đời.


TÂM SỰ TỪ HUYÊN 44

(Thương tặng con gái Đ.T.M.C.)

Canh khuya gió lạnh cuối Thu,
Ngoài trời bàng bạc sương mù khắp nơi.
Lập loè vài ánh sao rơi,
Nỗi niềm tâm sự bời bời, ngổn ngang.
Đăm đăm rõi đám mây Hàng (1)
Nỗi quê khắc khoải lại càng thương con.
Nhớ chăng ngày mẹ lâm bồn,
Trăm đau, nghìn đớn hao mòn vẻ xuân.
Tuổi thơ con đã lớn dần,,
Sách đèn sớm tối chuyên cần chẳng lơi..
Bể dâu khói lửa ngút trời,
Gia Quy, Quốc Pháp đổi ngôi lạ lùng.
Cha con tù rạc tập trung,
Khổ sai đầy ải lao lung não nề.
Mẹ thì khuya sớm đi về,
Buôn tần, bán tảo trăm bề khó khăn.
Chẳng nề đường xá cách ngăn,,
Nuôi cha từng miếng cơm ăn hàng ngày.
Dạy đàn con trẻ thơ ngây,
Siêng năng nghề học, chờ ngày hiển vinh.
Thời gian vó ngựa quá nhanh,
Đông qua, Xuân tới duyên lành đẹp đôi.
Cây Nhân, cành Đức nẩy chồi,
Trai dư thông tuệ, gái thời đẹp tươi.
Cửa nhà, sự nghiệp hơn người,
Yên vui cuộc sống, thảnh thơi hưởng nhàn.
Đầy nhà thơm nức Huệ, Lan,
Là nhờ âm đức muôn vàn kiếp tu.
Tính tình nhớ lẽ cương nhu,
Bạc vàng đầy túi khôn mua chữ hoà.
Kỷ cương giữ trọn nếp nhà,
Anh trên, em dưới thiết tha nghĩa tình.
Sống chung mái ấm gia đình,
Hay gì kẻ trọng, người khinh thói thường.
Dẫu xa xôi vạn dặm đường,
Đã yêu nhau, vẫn lẽ thường gần nhau.
Xưa nay một ngựa ốm đau,
Cả tầu chê cỏ là câu răn đời.
Ghi lòng tạc dạ con ơi,
Thương con gọi có đôi lời khuyên răn.
Vun bồi cây Đức, cành Nhân,
Trước con đẹp mặt, sau phần mẹ vui.
Giữ sao trọn đạo làm người,
Gái ngoan không để tiếng cười về sau 44

SAN JOSE, tháng 1, 1996
GHI CHU :
(1) Mây Hàng : Mây ở Núi Thái Hàng bên Trung Hoa. Theo Đương Thư, Địch Nhân Kiệt làm quan ở đất tinh Châu. Một hôm đưa bộ hạ lên chơi Núi Thái Hàng, ngoảnh lại nhìn thấy có đám mây trắng bay lờ lững ở đằng xa. Ông ngậm ngùi nói với bộ hạ rằng : “Ngô thân xá kỳ hạ” (nghĩa là cha mẹ ta ở dưới đám mây trắng đó). Nói rồi , ông nhìn đám mây cho đến khi bay đi hết mới thôi. Ý nói nhớ đến cha mẹ

QUẢNG NAM XỨ ĐỊA LINH NHÂN KIỆT


Quảng Nam tỉnh : Địa Linh Nhân Kiệt,
Khắp năm Châu đều biết danh xưng.
Bao nhiêu hào kiệt anh hùng,
Thương dân, yêu nước lẫy lừng còn ghi.
Sắc Ngũ Phụng Tề Phi chỉ một, (1)
Bảng Tứ Hùng uy liệt không hai. (2)
Đồng khoa Năm vị đua tài,
Cổ Kim độc nhất còn ai thể ngờ.
Bậc khoa bảng văn thơ trác tuyệt,
Danh vang lừng tuấn kiệt nhường ai.
Chung linh, tú khí anh tài,
Chấn hưng đạo đức, an bài kỷ cương.
Khi đất nước bốn phương tơ rối,
Quyết chuyển xoay rường mối phân minh.
Trần Cao Vân quá bất bình,
Chống Tây vì nỗi dân mình đau thương.
Dân thông suốt luân thường, đạo lý,
Khắp trẻ già ý chí nâng cao.
Phong trào yêu nước hô hào,
Lấy câu Quốc hận đặït vào trong tim
Người người trọng thảo hiền, nghĩa khí,
Thương nước nòi đang bị chia phân.
Quyết phò ấu chúa Duy Tân
Chống xâm luợc Pháp cứu dân thoát vòng.
Trần Quý Cáp uy phong lẫm liệt,
Cùng Cao Vân tiêu diệt ngoại xâm
Uy danh lưu đến muôn năm,
Thái Phiên ý chí cao thâm nghìn trùng.
Đã chống giặc quyết không hàng giặc,
Án tử hình phó mặc trời cao.
Vì dân chịu cảnh lao đao,
Dấn thân dù đổ máu đào xá chi.
Khi đất nước suy vi rường mối,
Sức mạnh nào chống nổi bão giông.
Gươm đao sánh với súng đồng,
Bó tay đành phải quặn lòng thua cơ...
Vì cứu nước giương cờ, gióng trống,
Quyết diệt Tây thỏa mộng Hải Tần.
Khốn thay, khí nhuệ cơ tân,
Súng đồng, bộc phá trăm lần hơn ta...
Mộng diệt giặc dẫu là chưa đạt.
Bọn Lang Xa cũng bạt vía rồi.
Nghìn sau lịch sử tô bồi,
Ghi công Chính khí vùng trời Quảng Nam. 44

Cuối Đông BÍNH TUẤT 2006

TRƯỜNG GIANG

GHI CHÚ : (1) Ngũ Phụng Tề Phi = Năm con chim Phượng cùng bay. Đó là chữ doVua Thành Thái ban cho 5 vị Đại Khoa của Tỉnh Quảng Nam cùng đậu trong Khoa Mậu Tuất 1898. (Coi NGŨ PHỤNG từ số 1 đến số 5 ở dưới)
(2) Tứ Hùng hay Tứ Hổ (Bốn con Cọp tỉnh Quảng Nam (Ý nói 4 vị đại Khoa của tỉnh Quảng Nam)

NGŨ PHỤNG (Khoa MẬU TUẤT 1898) (Việt Nam Từ Điển Lê Ngọc Trụ)
1- PHẠM LIỆU Trường Giang, Điện Bàn 1/7 Tiến Sĩ
2 - PHAN QUANG Phước sơn, Quế sơn 2/7 Tiến sĩ
3 - PHẠM TUẤN, Xuân Đài, Điện Bàn 5/7 Tiến Sĩ
4- NGÔ LÝ = CHUÂN) Cẩm Sa, Điện Bàn 1/9 Phó Bảng
5 - DƯƠNG HIỂN TIẾN Cẩm Lậu,Điện Bàn 3/9 Phó Bảng

TỨ HÙNG (Thủ khoa các khoa thi hương) (Việt Nam Từ Điển Lê Ngọc Trụ )
1- Pham Liệu Trường giang Điện Bàn
2- Huỳnh thúc Kháng (Hanh) Tiên Phước, Quế sơn
3-Võ Hoành, Duy Xuyên, Điên Bàn
4-Nguyễn Đình Hiến (*), Trung
Lộc Quế Sơn