31.12.07

VĂN TẾ QUỐC TỔ HÙNG VƯƠNG


3 HỒI chiêng / trống

1a- Ăn quả nhớ kẻ trồng cây,
Uống nước ơn người khơi vũng.
2a- Việt Nam vốn thừa tuấn kiệt,
Âu Lạc không thiếu anh hùng.
3 TIẾNG chiêng / trống

3a- Nhờ ơn Quốc Tổ / khai rừng, phá núi / thành lập Quốc Gia / lịch sử truyền tụng văn khanh /
3b- Cậy đức Tiền Nhân / đắp lũy, xây thành/ dựng nền Dân Tộc / quê hương lẫy lừng vũ dũng /
4a- Mười tám triều uy phong / dẹp bạo nghịch Phương Nam / non sông thừa danh Tướng mưu cơ

4b- Bốn nghìn năm rạng rỡ/ chống xâm lăng Cõi Bắc/ đất nước đủ hiền Thần hữu dụng.
3 TIẾNG chiêng /trống

5a- Sơn hà cẩm tú / cậy ơn Cha / các giới đồng lao cộng hưởng/
5b- Xã tắc chung linh / nhờ phúc Mẹ / muôn người tận tụy cúc cung /
6a- Noi gương tiền bối / phát huy nền văn hóa cổ truyền / dạy trai trung hiếu, luân thường/ tôn quốc pháp / đề cao nết tốt bậc sĩ phu /
6b- Theo dấu người xưa / mở rộng nếp nhân luân kỳ cựu / khuyên gái tiết trinh, đạo lý/ trọng gia quy / giảm bớt thói hư hàng tham nhũng/
3 TIẾNG chiêng / trống

Bỗng nhiên tai họa dập dồn :

7a- Thù Cộng Sản tiếm quyền / phá tan Giềng Mối Ông Cha / gái trai khắp chốn hận thù /
7b- Giặc Mác Lê đoạt vị / đạp đổ Thói Lề Tổ Phụ/ già trẻ nơi nơi kinh khủng.
8a- Hô Dân Chủ, lại chôn vùi Dân chủ/ đè đầu, bóp cổ nhân dân/ đầy tớ bịp ăn sung, mặc sướng / nhà cao, cửa rộng / yến vãi khắp nơi /
08b- Nói Tự Do, sao chà đạp Tự do / bịt mắt, khóa mồm công chúng / chủ nhân hờ, ngậm đắng, nuốt cay, khố rách, áo ôm / cơm không no bụng/.
3 TIẾNG chiêng / trống

9a- Vi phạm Nhân Quyền / bắt bớ không cần nguyên tắc / bán đứng Lương Tâm / dân khốn đốn vì Đảng ác ôn /
9b- Diệt trừ Tôn Giáo / cấm ngăn chẳng kể Thánh Thần / buôn non luật pháp /nước lao đao bởi Đoàn tham nhũng /
10a- Xâm chiếm Miền Nam / Hoàng Sa hiến quỷ Mao / lũ Đồng Duẫn dùng Đất Tổ mua sắm bom mìn/
10b- Gạt lường Xứ Bắc/ Bản Giốc dâng ma Đặng / bọn Thọ Phiêu đem Quê Cha đổi trao đạn súng.
3 TIẾNG chiêng / trống

Khi cưỡng chiếm Miền Nam :

11a- Bắt Quân Dân Cán Chính nhốt tù/ cướp của lương dân / đổi tiền thật lấy tiền ma / Miền Bác quyết chí vượt biên/ muôn xác vùi sâu chốn núi đồi /
11b- Đem Trí, Phú, Địa, Hào đầy ải / giết người vô tội / tráo vàng ròng ra vàng giả / Phương Nam nhất tâm đào thoát / vạn thây chôn chặt nơi thung lũng /
3 TIẾNG chiêng / trống

Nay chúng con :

12a-Dâng chén rượu chân thành / nguyện Quốc Tổ thấu tình / phù trì dẹp tan đảng Hồ Mao quỷ quyệt / bảo đảm Dân Chủ, Nhân Quyền / lật đổ cờ đỏ một sao vàng / cả nước nhận đủ Quang vinh /
12b- Đốt tuần nhang kính cẩn / mong Tiền Nhân chứng giám / trợ giúp phá nát họa Lê Mác ác ôn / duy trì Tự Do, Hạnh Phúc / dương cao Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ / toàn dân hưởng đầy ân sủng./.
3 HỒI chiêng / trống

THƯỢNG HƯỞNG

14/12/2005
TRƯỜNG GIANG Biên Soạn

29.12.07

ĐIỀU KIỆN TRƯỚC TIÊN



BÀI XỨƠNG

Gấm vóc sơn hà là của ta
Đó là di sản của Ông , Cha
Cộng nô hèn nhược dâng Trung Cộng
Dân Việt kiên cường giữ Đảo Sa
Tổ quốc lâm nguy đà cảnh báo
Non sông hùng tráng sẽ phong ba
Muốn cho xứ Việt thôi tang tóc
Điều kiện trước tiên phải diệt tà (*).

Lâm Hoài Vũ
27/12/2007

(*) đảng việt gian cộng sản


BÀI HỌA

Cẩm tú giang sơn nước Việt ta,
Sử vàng truyền tụng của Vua Cha.
Quỷ Hồ sấp mặt dâng biên địa,
Ma Cộng cúi đầu hiến Đảo Sa.
Quốc phá triền miên tràn ám khí,
Gia vong liên tục dậy yên ba.
Toàn dân nhất trí cùng đoàn kết,
Cứu nước vùng lên diệt giặc tà


28-12-2007 TRƯỜNG GIANG


25.12.07

XUÂN NÀY TA QUYẾT




(VỌNG CỐ HƯƠNG)

BÀI XƯỚNG:

Thế sự còn trong một cõi thơ,
Bao phen hoài vọng, luận thời cơ.
Dư đồ ai cắt sâu biên giới,
Hải phận triều xô lõm bến bờ.
Một thuở chinh yên xanh tóc mộng,
Ngàn đời non nước bạc đầu mơ.
Quê hương thăm thẳm trời hoang loạn,
Sao chẳng vùng lên phất ngọn cờ.
Cao Mỵ Nhân


BÀI HỌA 1

Đất nước thanh bình...đẹp ý thơ,
Đầu năm Mậu Tý đón huyền cơ.
Lửa sôi đất Mẹ: tiêu trừ đảng,
Sóng dậy lòng dân: tức vỡ bờ.
Sông núi điêu tàn, đau tấc dạ,
Quê nhà nghiêng ngửa, tĩnh cơn mơ.
Đồng tâm xây dựng quê hương Việt,
Đứng dậy vùng lên "Dựng lại cờ"

Đứng dậy vùng lên "Dựng Lại Cờ",
Thế thời chuyển biến...tưởng như mơ.
Miền Nam cướp đoạt, đau hồn nước,
Biển Bắc dâng chia, xót cõi bờ.
(Nằm mộng rung cây, chờ sung rụng ???
Chóng sào đón gió, đợi thiên cơ ???)
Quê hương quang phục, đồng chung sức,
Đất nước thanh bình...đẹp ý thơ.

DU SƠN LÃNG TỬ

BÀI HỌA 2

Mậu Tý đầu Xuân đẹp tựa thơ
Hết cơn bĩ cực đến thời cơ.
Toàn dân nổi dậy, trừ tan đảng,
Cả nước vùng lên, phá vỡ bờ.
Trai gái kết đoàn nào phải mộng ?
Trẻ già liên hiệp phải rằng mơ ??
Nguyện cầu Quốc Tổ phù con đỏ,
Quyết chí đồng tâm đổi sắc cờ.

Quyết chí đồng tâm đổi sắc cờ
Rõ mười chính xác, phải đâu mơ ??
Sáu mươi năm lẻ không còn nước,
Ba chục xuân dư đã mất bờ.
Cộng sản bại vong vô địa táng,
Quốc gia hưng thịnh hữu thiên cơ.
Năm Châu, bốn Bể hô vang dội,
Dựng lại Cờ Vàng, đẹp tựa thơ.

24-12-2007 TRƯỜNG GIANG

22.12.07

MỪNG LỄ GIÁNG SINH



1/2 Mừng Lễ Giáng Sinh gởi mấy vần,
Chúc điều may mắn bạn bè thân.
Nâng ly Thanh Trúc cung nghinh Chúa,
Cạn chén Bồ Ðào đón lộc Xuân.
Sớm thoát thiên tai năm tháng cựu,
Hưởng lành địa phước nguyệt niên tân.
Thời bình, an định nhân tâm ổn,
Dưới thế gần xa, hưởng phước phần.


2/2 Phước phần Chúa giáng xuống dương trần,
Bánh kẹo lễ quà đãi quí nhân.
Khấn nguyện lộc trời, êm tứ xứ,
Cầu xin ơn Chúa, ấm toàn dân.
Thánh truyền hạnh phúc, đời Hoàn Mỹ,
Chuông vọng hưng hòa, kiếp Thiện Chân.
Kính chúc mọi người vui khoẻ mãi,
Bình an dưới thế khắp xa gần.
Mùa Giáng Sinh 2007

Du Sơn Lãng Tử

BÀI HỌA

Cung nghinh Thiên Chúa, lựa mươi vần,
Kính chúc Đông Đoài các bạn thân.
Mãi mãi an tâm khi nắng Hạ,
Luôn luôn tĩnh trí, lúc mưa Xuân.
Quanh năm đầy đủ, chiêu bằng hữu,
Suốt tháng dư thừa, đãi khách tân.
Trần thế tràn đầy ân Thánh Chúa,
Ban cho nhân loại hưởng trăm phần…

Thánh Đức ban ra khắp cõi trần,
Tu tâm, dưỡng tính giữ lòng nhân.
Cúi xin ngũ phúc, toàn thiên hạ,
Khấn nguyện tam đa, khắp thứ dân.
Ao ước Chúa ban ân tuyệt mỹ,
Cầu mong Mẹ rải nghĩa toàn chân.
Đức tin giữ trọn lòng chung thủy,
Thiên quốc dù xa cũng rất gần.

20-12-07 TRƯỜNG GIANG

20.12.07

HÃY MAU ĐỨNG DẬY !



BÀI XƯỚNG

Uất hận tràn dâng tận đáy lòng
Còn đâu hoa gấm của non sông !
Nam Quan vẫn vẳng lời ly biệt (1)
Hoàng Đảo còn vang tiếng tấn công (2)
Thuở trước Cha Anh sao lẫm liệt !
Bây giờ lũ cộng quá nô vong !
Hãy mau đứng dậy ! Anh em hỡi !
Cứu lấy giang sơn giống Lạc Hồng .

Lâm Hoài Vũ

(1) Nguyễn Trãi ly biệt cha là Nguyễn Phi Khanh
(2) xin mời quý huynh tỉ vô trang :
Video Hoàng Sa-Trường Sa:

BÀI HỌA

Tâm tư uất nghẹn, quá đau lòng !!
Giặc Bắc ngang nhiên chiếm núi sông.
Văng vẳng Nam Quan lời tiễn biệt,
Ầm ầm Hoàng Đảo tiếng thần công.
Tổ Tiên thuở trước đầy oanh liệt,
Việt Cộng ngày nay ngập bại vong.
Cả nước quyết vùng lên diệt giặc,
Xá gì máu thắm cả Sông Hồng…

18-12-07 TRƯỜNG GIANG

19.12.07

NGỌN BÚT TẦY

(Gửi người coi cây viết như cán chổi cùn)

Hắn vốn dĩ là tay ngược ngạo
Chuyên ngoác mồm nói láo ăn tiền
Đạp lên đạo đức Thánh Hiền
Ngược xuôi ngửi thấy hơi tiền là xông,
Cớ sao nỡ uốn cong ngòi bút,
Viết lăng nhăng không chút lương tri
Vốn nòi mặt sắt đen sì,
Nói xuôi là ngược, kể gì nhân luân.
Việc thiên hạ xa gần bới móc,
Nói xỏ xiên châm chọc lung tung
Chính mình nổi tiếng gian hùng,
Đòn càn hai mũi đâm lưng người hiền
Ai nhân đạo giúp tiền kẻ khó,
Hắn rêu rao như chó cắn càn.
Bới lông tìm vết lan man,
Chỉ nhằm bôi nhọ dã man đến điều!
Hắn quên bẵng sớm chiều suy nghĩ
Chẳng nhớ câu chung thủy là khôn
Vì tiền bán đứng linh hồn,
Tự tay đào huyệt để chôn chính mình
Người tị nạn tử sinh đồng cảnh,
Chẳng yêu thương lại đánh phá nhau.
Đủ điều vạch lá, tìm sâu,
Sao không nghĩ truyện bí bầu sớt chia
Hắn xúc xiểm chia lìa cốt nhục,
Khắp đồng hương sôi sục tâm can.
Nước sông cuồn cuộn xuôi ngàn
Hắn đòi bơi ngược vô vàn hiểm nguy
Hãy tỉnh ngộ xét suy cẩn thận
Kẻo búa rìu dư luận không tha
Người lưu tiếng, hổ để da,
Nghìn sau không tủi mẹ cha dưới mồ.
Viết hươu, viết vượn hồ đồ,
Miệng đời nguyền rủa điên rồ biết không??
Lời ngay tạc dạ ghi lòng,
Có khôn thì nhảy khỏi vòng qủy ma.
Họa vô đơn chí không xa!!!
Nói lời bất nghĩa, người ta chê cười. 23 - 2 - 1997

TRƯỜNG GIANG

30 THÁNG 4


Các chiến sĩ, đồng hương Hải Ngoại !
Còn nhớ ngày quằn quại đau thương?
Tháng Tư oan nghiệt đoạn trường,
Ai gây đại họa thảm thương khắp Miền?
Bọn Việt Cộng cuồng điên, rồ dại,
Giở đủ trò bách hại dân ta.
Chúng bày mưu quỷ, chước ma,
Oán than dậy đậy, thét la ngút trời.
Quân, Cán Chính khắp nơi chúng bắt,
Lừa dối đem nhốt chặt trong lao.
Từ rừng sâu đến núi cao,
Trại tù san sát khác nào lá cây.
Ngày khoai sắn đắng cay hai bữa,
Khai phá rừng đến mửa mồ hôi.
Khổ sai vác gỗ dốc đồi,
Hàng nghìn tù, bị giập vùi chết oan.
Lại bày kế vô vàn hiểm độc,
Phá Công, Thương bỗng chốc tan hoang.
Phao vu : cấu kết ngoại bang,
Của thì cướp đoạt, người mang nhốt tù !
Bộ Chính Trị đui mù, thiển cận,
Đã gây ra thù hận triền miên.
Trẻ già bỏ nước vượt biên,
Đau thương chồng chất, oan khiên ngút ngàn !!
Bị giặc biển Thái Lan cướp bóc,
Hiếp đàn bà, giết chóc đàn ông.
Xác người trôi khắp Biển Đông,
Quên sao được cảnh não lòng tang thương.
Miệng leo lẻo chủ truong nhân đạo,
Bắt người giàu tra khảo dã man.
Muốn thân phận được bình an,
Ký dâng tài sản, nỗi oan hết liền.
Đảng tổ chức vượt biên sống sượng,
Mỗi đầu người mười lượng vàng y.
Nộp vàng tức khắc ra đi,
“Ong bay” mặc tiếng thị phi chê cười.
Cha, Sư Sãi là người đức độ,
Suốt cuộc đời giác ngộ thế gian.
Cớ sao giá hoạ, vu oan ??
Giam cầm khảo đả vô vàn khổ đau!!
Vạch mặt bọn đầu trâu mặt ngựa,
Chém đầu phường dạ sứa gan lim.
Đem bùa Các Mác, Lê Nin,
Bắt dân thờ lũ mẹ mìn ngoại lai.
Con dân Việt trong ngoài ghi nhớ !
Để trong tim món nợ nghìn sau !!
Cáo tri cùng khắp năm Châu,
Cộng nô mã diện, ngưu đầu ác ôn.
Khắp thế giới tiếng đồn xảo quyệt,
Bọn chúng đang đào huyệt chôn nhau.
Đồng hương trên khắp hoàn cầu,
Kết đoàn quyết đánh giập đầu Cộng Nô !!


TRƯỜNG GIANG

NGÀY QUÂN LỰC 19 – 6

Mười chín tháng Sáu hàng năm,
Vinh danh chiến sĩ Việt Nam Cộng Hòa.
Quân hùng mạnh ai mà chẳng biết,
Đã lừng danh, oanh liệt năm Châu.
Vàng ròng khác biệt với thau,
Vì dân diệt Cộng giãi dầu sớm trưa.
Việc chống giặc đã thừa gian khổ,
Xá kể gì máu đổ thịt rơi.
Cộng nô gây tội ngút trời,
Giết dân, leo lẻo nói lời cứu dân.
Bọn Việt Cộng xa gần tổ chức,
Bắt dân lành ra sức đấu tranh.
Tuyên truyền xảo quyệt gian manh,
Việc không nói có, trắng thành đen ngăm.
Xúi Tôn giáo chống ngầm Tôn giáo,
Độc ác hơn hổ báo, sài lang .
Bề ngoài lời xẻ bạc vàng,
Dao găm chật bụng rõ ràng quỷ ma.
Biết bao kẻ khôn nhà dại chợ,
Nghe theo phường đầy tớ Nga Hoa.
Bàn thờ Phật ở trong nhà,
Vì ai cuồng tín khiêng ra ngoài đường ??
Gây rối loạn hậu phương khắp chốn,
Khiến đồng bào khốn đốn lo âu.
Cộng nô nước đục thả câu,
Nội công, ngoại kích, phá cầu, đốt kho.
Các chiến sĩ phải lo diệt Cộng,
Bọn côn đồ lại chống Trung Ương.
Gây bao đổ nát tang thương,
Xác người hầm hố, lề đường ngổn ngang.
Bằng ý chí thép gang quyết chiến,
Diệt ngưu đầu, mã diện tan hoang.
Bấy lâu sợ hãi kinh hoàng,
An ninh khắp chốn nay càng vững thêm.
Việc chống Cộng ngày đêm hiệu quả,
Lũ nằm vùng tan rã dưới trên.
Vì dân quyết tỏ trung kiên,
Hội Đồng Quân Lực đứng lên cầm quyền.
Quê hương đã như thuyền vững lái,
Khắp trẻ già, trai gái hoan hô.
Ước mong diệt hết giặc Hồ,
Để xây dựng lại cơ đồ Lạc Long.
Các Chiến sĩ sống trong lửa đạn,
Vẫn ngày đêm chống nạn Tam vô.
Đã từng gióng trống, phất cờ,
Quyết tâm bảo vệ cõi bờ, non sông.
Ơn chiến sĩ máu hồng dẫu đổ,
Để toàn dân khỏi bỏ làng thôn.
Sử vàng tô đậm nét son,
Công ơn chiến sĩ trường tồn sử xanh.


TRƯỜNG GIANG


NẮM CHẶT VÒNG TAY



Chớ dại dột theo phường mất gốc,
Bấy lâu nay bàn độc nhẩy lên.
Phụng thờ Các Mác, Lê Nin,
Đã chôn đạo nghĩa lại quên luân thường.
Hô giải phóng quê hương đất nước,
Giày mồ cha, đón rước bầy voi.
Hùa nhau phá nát giống nòi,
Miệng còn xoen xoét vun bồi biên cương.
Hồn Quốc Tổ Hùng Vương chứng giám,
Phá quê hương là đám Cộng nô.
Cầm đầu đảng cướp côn đồ,
Chính danh thủ phạm tên Hồ Chí Minh.
Gây tội ác tầy đình chồng chất,
Dẫu nghìn sau trời đất không tha.
Vô thần đội lốt Quốc gia,
Hủy nền Văn Hóa Ông Cha cổ truyền.
Dân kháng chiến vì quyền dân tộc,
Quyết không làm nô bộc Thực dân.
Nhân tài vật lực xa gần,
Dồn cho kháng chiến chẳng cần đắn đo.
Lũ vong bản côn đồ sấp mặt,
Đem nước nhà chia cắt làm đôi.
Đồng bào Miền Bắc khắp nơi,
Băng rừng vượt biển xa rời cố hương.
Dân thống khổ, đoạn trường nghìn nỗi,
Đảng ung dung giở thói bất nhân.
Phong trào đấu tố ngu đần.
Sông xa đỏ máu, núi gần trắng xương.
Vì giặc cộng chủ trương xích hóa,
Quyết vào Nam đánh phá khắp nơi
Dân lành máu đổ thịt rơi,
Chồng lìa vợ dại, con thời xa cha.
Thế chiến lược người ta sắp trước,
Cả Miền Nam mất nước hỡi ôi!
Tháng Tư sáng sớm ba mươi,
Đất dầy thống khổ, ngút trời đau thương !!
Dân cả nước tìm đường lánh nạn,
Quyết không cùng Cộng sản sống chung.
Vượt biên bát ngát nghìn trùng,
Mười phần chết chín não nùng xiết bao!
Ai kìm kẹp đồng bào cả nước?
Ai bày mưu tính chước hại dân?
Tài nguyên đất nước xa gần,
Hùa nhau bán sạch chẳng cần đắn đo.
Nay chúng lại bày trò đổi mới,
Lừa đồng bào, bịp khối Tự Do.
Dân đen thường bữa sắn, ngô,
Đảng thì trên dưới tha hồ túi tham
Đồng bào Việt bất phàm nơi chốn
Nối vòng tay diệt bọn Cộng nô
Đập tan huyền thoại giặc Hồ
Cùng nhau xây dựng cơ đồ Việt Nam
Rồi cả nước trân cam hạnh phúc
Khắp quê hương ca khúc tự do.
Dân giàu, nước mạnh ấm no
Nét son tô đậm trên pho Sử vàng
Chung lưng xây dựng xóm làng
Việt nam muôn thủa ngang hàng năm Châu 58

TRƯỜNG GIANG

NHÂN NGHĨA BÀ TÚ ĐỄ

(Gửi những người phá rối Cộng đồng)

Người ta sinh ở trên đời,
Giữ câu tín nghĩa, nói lời nhân luân.
Tôn vinh các bậc trung thần,
Anh hùng hào kiệt xa gần gương soi.
Xưa nay cầu bắc để noi (1)
Áo nào mặc được hẳn hoi qua đầu (2)
Đồng hương gặp lúc cơ cầu,
Thả câu nước đục, mở đầu bung xung.
Chôn vùi độ lượng bao dung,
Dẫu không huyết thống nhưng cùng màu da !!
Yêu nhau nào phải lụa là,
Hại người trung hậu chẳng qua vì tiền.
Cộng đồng đang sống bình yên,
Bỗng dưng xuất hiện thằng điên, con khùng.
Đặt điều, bịa chuyện lung tung,
Nặng mùi hơn cả trứng ung quá ngày !!
Xa lìa nẻo chánh, đường ngay,
Lòng đầy gươm giáo như bầy quỷ ma.
Quên nghĩa nước, bỏ tình nhà,
Cớ sao hành động như là đười ươi !!
Đen đầu cũng kể là người,
Uống ăn chi tổn cơm trời, nước sông ?
Vì tiền đổi dạ, thay lòng,
Gây ra tan nát cộng đồng lạ chưa !!
Gục đầu nuốt miếng cơm thừa,
Ham đồng bạc nhớp mà lừa lọc nhau.
Loài tôm “cứt lộn lên đầu”, (3)
Còn trên hàng lũ quân hầu “Khuyển Ưng”
Chim khôn tìm đậu cây rừng,
Những nơi gai góc thì đừng chui vô.
Tấm gương phản trắc “giặc Hồ”,
Được chim bẻ ná (4) điên rồ mới theo...
Cạn suy theo lũ hùm beo
Bây giờ danh hão chôn theo đồng tiền.
Quả thật là điên !!!! 35
112000 TRƯƠNG GIANG

GHI CHÚ:
(1) Tục ngữ: “Bắc cầu mà noi, ai bắc cầu mà lội”.
Ý nói, bất cứ ai làn việc gì cũng mong đem
kết quả tốt cho mình, cho người, không ai muốn
gây kết quả xấu, làm thương luân, bại lý.
(2)Tục ngữ: “Áo mặc sao qua khỏi đầu”. Chê
người hành động càn rỡ, gây tai hại cho mình,
cho người mà không hỏi ý kiến người trên như
cha mẹ, ân nhân của mình.
(3) Tục ngữ “Họ nhà tôm cứt lộn lên đầu” chê
người sống bất chấp thứ bậc trong gia đình, con
cãi cha, vợ gây lộn với chồng v...v...
(4) Tục ngữ “Được chim bẻ ná, được cá quên nơm”
Chê kẻ đã lợi dụng người khác để làm lợi cho mình,
khi xong việc thì đuổi đi.

MÚA RỐI




(Thân tặng sinh viên Đại Học BERKLEY, lực lượng
chính trong 3 ngày Biểu tình phản đối Việt-Cộng đem
trò Múa Rối nước đến biểu diễn ở trường này)

Ngụy Việt Cộng giờ trò múa rối,
Đã bị ăn trứng thối, cà chua
Sao còn trống đánh, chuông khua?
Cáo chồn lột xác, đeo bùa “Hồ ly”
Tới Đại Học Bớc Ly trình diễn
Mong bịp người lương thiện dễ tin.
Tuyên truyền luận điệu mẹ mìn
Chướng tai, nghe đã phát phiền buồn nôn.
Dân chống đối chúng dồn vào khám
Cảnh tù đầy thê thảm xiết bao!
Bảy mươi hai triậu đồng bào,
Lao nô quần quật, miệng trào đắng cay.
Trai thống khổ, kéo cầy thay ngựa,
Gái đọa đầy, vác nứa kiếm ăn
Suốt đời chịu phận nhọc nhằn
Cơm không đầy bụng, áo quần tả tơi.
Cha, Sư, Sãi suốt đời sống đạo
“Đảng” thả giàn tra khảo bắt giam.
Nhà văn, nhà báo khóa hàm,
Bôi đen Dân Chủ, nhúng chàm Tự Do.
Nay chúng lại bày trò lừa đảo,
Dùng chiêu bài giao hảo một phen.
Sinh viên, Đoàn thể đứng lên,
Vạch trần tội ác những tên cướp ngày.
Lời cáo giác tỏ bày cặn kẽ,
Chẳng ai thèm mua vé tới coi,
Đô la nếu muốn dễ moi,
Phải mau đoạn tuyệt làm bồi Tàu Nga.
Đừng níu kéo qủy tà gian ác,
Phải buông ngay “Đảng Bác” mới xuôi.
Đem chuông đi đấm nước người
Chuông rè, gây một trò cười nhục chưa??


TRƯỜNG GIANG

MIỆNG ĐỜI



Xứ Cờ Hoa thượng thừa Dân Chủ,
Mọi sắc dân đầy đủ nhân quyền.
Dẫu là tuấn kiệt, thuyền quyên,
Ai ai đều cũng bình quyền như nhau
Dù cư ngụ lâu mau chẳng kể,
Luật Pháp đều bảo vệ tối đa.
Tỉnh, Bang, Thị Trấn gần xa,
Nơi nơi lạc nghiệp, nhà nhà bình an.
Vì hành động vô vàn tự chế,
Thấm nhuần bao thế hệ đến nay.
Tôn ti, trật tự đó đây,
Sống trong Luật Pháp dẫy đầy công minh.
Người ta vốn đầy mình lý trí,
Cũng phải nên suy nghĩ trước sau,
Thượng tôn Luật Pháp làm đầu,
Gây tình thân ái, bí, bầu yêu thương.
Vì nghề nghiệp lẽ thường ganh tị,
Chớ dùng lời thô bỉ chửi nhau.
Bới lông, tìm vết “ruồi bâu”
Đặt điều lăng nhục, nói câu sỗ sàng.
Người liêm sỉ bẽ bàng, tủi hổ,
Tránh nghe lời “bão tố, mưa giông”
Chói tai tập thể Cộng đồng,
Phải nghe những truyện đau lòng, sót sa.
Đừng gây cảnh nồi, xáo thịt,
Phải tạo niềm khăng khít, thân yêu.
Giá gương cần phủ nhiễu điều,
Bí, bầu khác giống vẫn nhiều tình thương.
Chúng ta bỏ Quê Hương, Đất Nước,
Đau xé lòng cất bước phân ly.
Cột đèn ví phỏng biết đi,
Cũng liều bỏ nước cấp kỳ vượt biên.
Trách kẻ uống mã tiền, thuốc lú,
Bia miệng còn lưu sú nghìn sau.
Xưa nay một ngựa ốm đau,
Cả tầu chê cỏ là câu răn mình.
Xuôi tay thóc cót, bạc giành,
Công danh, sự nghiệp cũng đành bỏ đi.
Hay gì gây truyện thị phi,
Miệng đời nguyền rủa chi ly từng lời.
Ghi lòng, tạc dạ ai ơi!! 41

TRƯỜNG GIANG



MÊ MUỘI




(Gửi Ông Phó Tổng)

Ông từng bối tử cân đai,
Phải chăng xót nước vắn dài giọt châu?
Nay mới rõ tình đầu tuyệt vĩ,
Hóa ra Ông làm đĩ mười phương!!
Ông vì Tổ Quốc quê hương ?
Hay là yêu mụ Tây Dương nhiều vàng ?
Ông cũng thuộc vào hàng rất bảnh,
Cũng trăng sao lấp lánh bờ vai.
Hào hoa, phong nhã kém ai,
Tung mây lướt gió miệt mài khắp nơi.
Tính ruột ngựa buông lời lếu láo,
Lấy đầu heo nấu cháo ba xu.
Việc dân canh hẹ rối mù,
Ham xoa, phó mặc quân thù tấn công.
Khắp chiến địa máu hồng, xương trắng,
Quân Cộng Hòa ngậm đắng nuốt cay.
Sài Gòn thất thủ, ô hay!!
Nhanh chân Ông chạy sang Tây hưởng nhàn.
Bao chiến hữu thân tàn ma dại,
Sống đọa đầy khổ ải trong lao.
Bốn phương vang động thét gào,
Năm Châu xúc động lệ trào, sót xa.
Dân quằn quại nhà nhà thống khổ,
Đảng lột không còn khố để mang.
Vượt biên lớp lớp hàng hàng,
Đầy sông máu đỏ, ngập đàng trắng xương.
Tiếng gầm thét đoạn trường thống thiết,
Giọng oán hờn rên xiết, điêu linh.
Vì tai điếc mới làm thinh,
Hay Ông mắc chứng thong manh không nhìn.
Đất nước thế khó tin mà thật,
Ông mộng du ngủ gật mãi a?
Bắt tay với lũ cáo già,
Những tên đồ tể, ngỡ là hiền nhân.
Chúng là bọn vô thần đầu nậu!
Chúng là phường uống máu không tanh!
Ông vì quyền lợi, công danh?
Tới lui cùng lũ gian manh Đỗ Mười.
Nó là giống mặt người, dạ thú,
Sẵn dành phần cháo lú cho Ông.
Hôm nay dê béo, rượu nồng,
Ngày mai nó xé xác Ông lẽ thường.
Tránh xa quỷ xứ, ma vương,
Kẻo rồi nát thịt, tan xương có ngày.
Mười phương giữ một mới hay!!!! (1) 45

TRƯỜNG GIANG
GHI CHÚ : (1) Tục ngữ : Làm đĩ chín phương,
dành lại một phương để lấy chồng






MẸ KHUYÊN CON


“Cá không ăn muối cá ươn,
Con cãi Cha Mẹ trăm đường con hư”â (CD)

Mẹ khuyên bảo con từ thơ dại,
Chớ gây điều oan trái gian manh.
Lời xưa đã dạy rành rành,
Mua danh ba vạn, bán danh ba đồng.
Con đã học tinh thông vạn quyển,
Túi kinh luân rèn luyện dày công,
Nay con tên chiếm bảng rồng,
Đền công Cha Mẹ, Tổ Tông, họ hàng.
Con vừa tạo vinh quang cho mẹ,
Cũng đồng thời giở quẻ bán danh.
Uổng công gian khổ học hành,
Gục đầu thờ lũ gian manh, nực cười !!...
Chúng là giống mặt người dạ thú,
Đem bùa mê thuốc lú hại dân.
Dối lừa lấy giả làm chân,
Nói xuôi là ngược, đổi ân ra thù.
Quên Tổ Quốc đui mu,ø thiển cận,
Rặt một phường ngu xuẩn, u mê.
Tôn thờ chủ nghĩa Mác Lê,
Giở trò chuyên chính làm hề múa may.
Ôi đất nước từ ngày “giải phóng”â,
Dân khốn cùng phải sống trong lao.
Hận thù chồng chất ngút cao,
Lời kêu xé ruột, tiếng gào nát gan.
Nghìn thảm họa, nhà tan cửa nát,
Vạn oan khiên ruộng mất, vườn tiêu.
Hiểm nguy, thống khổ vẫn liều,
Cắn răng lìa nước sớm chiều vượt biên.
Lũ mất gốc trăm nghìn mưu chước,
Bán tài nguyên đất nước bấy nay.
Tranh ăn như chó một bầy,
Hùa nhau vơ vét ních đầy túi tham.
Bắt Tu Sĩ kiên giam sớm tối,
Gán tội rằng phá rối an ninh.
Công, Nông,Thương nghiệp phồn vinh.
Bày trò cải tạo mặc tình cướp thâu.
Sớm bắn giết, chặt đầu chủ ruộng,
Trưa chém đâm, mổ bụng thương gia.
Oan khiên trùm khắp mọi nhà,
Chập chờn luôn có bóng ma tử thần.
Giặc Cộng Sản hiện thân giống qủy,
Hút cạn dòng máu tủy nhân dân.
Cớ sao con lại kết thân,
Làm tay sai lũ hung thần ác ôn ???
Hàng triệu triệu oan hồn lãng đãng,
Đang thét gào đòi mạng gần xa.
Nếu con nghĩ đến QUỐC GIA,
Hãy mau xa lánh giặc tà Cộng nô.
Cùng góp sức diệt Hồ cứu nước,
Dựng nhân quyền tạo phước cho dân.
Nghìn sau bốn bể xa gần,
Tên con lịch sử vạn phần ghi công.
Bằng như con lội ngược dòng,
Làm sao trốn thoát khỏi vòng hiểm nguy.
Vắt tay lên trán mà suy!!!!


TRƯỜNG GIANG

MẶT MO



Mũ ni muốn được che tai,
Khỏi nghe những truyện rông dài lăng nhăng.
Đời lắm kẻ nói năng cà chớn,
Hết thiến gà, hoạn lợn, mổ heo.
Chuyên môn bới bọ trong bèo,
Đặt điều, bịa truyện, eo xèo hại nhau.
Đành chắp vận nên câu thổ lộ,
Để góp lời ôn cố, tri tân,
Nhớ chưa Cộng Sản vô thần ??
Độc- tài, chuyên chính bạo Tần cũng thua.
Hồ Chí Minh đem bùa Các Mác,
Giải phóng dân, dân xác như vờ.
Miền Nam gặp vận sa cơ,
Gia tài chúng cướp, một giờ trắng tay!!!
Khắp đất nước tối ngày sợ hãi,
Lìa quê hương, hớt hải vượt biên.
Quá nhiều thống khổ, oan khiên,
Lênh đênh biển cả, tìm Miền Tự -Do.
Hết giông bão đến lo giặc bể,
Hiếp gái tơ, hãm kẻ già nua.
Giết người một mạng không chừa,
Xác thân trôi nổi chẳng thua lá rừng.
Nay cuộc sống xem chừng vững chãi,
Đã quên ngày sợ hãi, khổ đau.
Hỏi ai gây cảnh thảm sầu ??
Vì ai dân chịu cơ cầu, thảm thương??
Người tị nạn chủ trương chống Cộng,
Đòi quyền dân được sống tự do.
Sao không đoàn kết chung lo??
Chia bè, rẽ phái, “mặt mo trở cờ”.
Giặc Cộng Sản sờ sờ còn đó,
Chờ thời cơ như chó cắn càn.
Dãy đầy mưu gạt, kế gian,
Toàn dân còn chịu muôn vàn khổ đau.
Phải đoàn kết trước sau một mối,
Diệt Cộng nô, hài tội giết dân.
Quê hương khắp chốn xa gần,
Quyết không dung lũ phi nhân trở cờ.
Hồn Sử Việt sẽ tô đậm nét,
Kẻ hại dân phải chết vì dân.
Xưa nay bao kẻ ngu đần,
Vì bơi ngược nước nên thân chết chìm.
CHỐNG MẮT MÀ XEM!!!!. 43

TRƯỜNG GIANG

LŨ CON HOANG

Tưởng rằng chia sớt ngọt bùi,
Ai ngờ gây họa dập vùi cho nhau.
Thì ra lũ đầu trâu mặt ngựa,
Ấy cũng phường mặt sứa gan lim.
Khi xưa phượng chả, công nem,
Mà nay hai ngả chẳng thèm ngó nhau !!
Càng suy nghĩ càng đau như hoạn,
Ai ngờ đâu tin bạn mất bò.
Những mong việc nước chung lo,
Dẹp tan bè lũ Cộng nô ngông cuồng.
Mong đất nước, quê hương giàu mạnh,
Để dân mình thoát cảnh khổ đau...
Bao nhiêu oan khuất bấy lâu,
Cộng nô trút cả lên đầu dân đen !!
Miệng có đấy, nói lên không được,
Vì Công An từng bước rõi theo.
Đảng, Đoàn ác tựa hùm beo,
Tự do Tôn Giáo như bèo trôi sông.
Bắt cả nước sống trong tù ngục,
Xá kể gì tủi nhục oan khiên.
Bao năm vùi dập Nhân Quyền,
Trẻ già chi khác con thuyền không neo !!
Cả dân tộc đói nghèo xơ xác,
Cán bộ thì ních bạc đầy rương.
Dưới trên một lũ bất lương,
Nhân luân chôn lấp, kỷ cương giập vùi.
Bọn đón gió ngửi mùi cởi trói,
Đã vội vàng khăn gói chạy theo.
Giành nhau như chó với mèo,
Vắt chanh bỏ vỏ, gương treo bấy chầy.
Khôn theo đường chánh, nẻo ngay,
Kẻo rồi tủi nhục một ngày không xa...
Hay chi theo bọn gian tà,
Để cho GIÀ TRẺ GẦN XA KHINH NHỜN....

501
TRƯỜNG GIANG.



LỜI NÓI LÀ VÀNG


Khôn ngoan cau bảy bổ ba,
Cớ sao bày đặt bổ ra làm mười...
Đã được tiếng là người có học,
Đừng quên câu ăn vóc, học hay.
Ơn cha, nghĩa mẹ, công thầy,
Lấy câu tải đạo hàng ngày tu thân.
Với bè bạn xa gần tương kính,
Chớ so đo, suy tính thiệt hơn.
Chẳng nên nóng nẩy, giận hờn,
Nói lời điềm đạm như đờn chùng dây.
Xưa nay khắp Đông, Tây kim cổ,
Đều lấy câu ôn cố tri tân.
Chẳng nên trọng phú, khinh bần,
Nhân quần, xã hội phải cần điểm tô.
Phải nhớ chữ họa vô đơn chí,
Đứng quên câu phúc dĩ trùng lai.
Trước sau nghĩa nặng, tình dài,
Vui bè, khỏe bạn chê bai ích gì !!
Đừng buông tiếng thị phi, châm chọc,
Chớ nói lời hằn học ghét ghen.
Hay gì đổi trắng thay đen,
Nào ai khen thói quàng xiên hợm mình.
Phải nhớ chữ nhân tình thế thái,
Chớ quên câu thiên tải nhất thì.
Nghìn sau thiên hạ nể vì,
Chính nhân quân tử cũng vì chữ tâm.
Ai cũng biết người câm hay nói,
Kẻ điếc thì soi mói thích nghe.
Nói lời lỗ mãng, người chê,
Dịu dàng, thùy mị, trăm bề lọt tai.
Sao có kẻ học tài hiểu rộng,
Mở mồm ra là chống tơi bời.
Nói năng chẳng biết giữ lời,
Luôn luôn bắt chước hạng người lố lăng.
Người có học phải rằng ngu xuẩn,
Lời nói ra thiển cận, quàng xiên.
Chuyên gây ra việc đảo điên,
Bạn bè không chút bình yên vui cười.
Khắp bằng hữu người người xa lánh,
Hỏi những khi ấm lạnh nhờ ai ??
Đừng nên cậy giỏi, khoe tài,
Dẫu mình chín lạng, người ngoài một cân.
Phải giữ lễ xa gần giao hảo,
Chớ hợm mình cao ngạo khinh khi.
Hay gì để tiếng thị phi,
Nghìn sau lưu tiếng xầm xì mỉa mai.
Thiên hạ nhân, thiên hạ tài,
Hơn nhau là được muôn đời ngợi khen...

TRƯỜNG GIANG

LỜI CON TRẺ



Con thương Mẹ lắm, Mẹ ơi !
Chuyên tâm, trì chí (1) suốt đời dạy con.
Nhớ lại thuở con còn tấm bé,
Mẹ tận tình chỉ vẽ cho con :
* Công Cha như núi Thái sơn (2),
Nghĩa Mẹ như nước trong nguồn (3) chảy ra.
Phải nghĩ đến công Cha là trọng,
Nghĩa Mẹ như biển rộng bao la.
Công sinh dưỡng, ngút Ngân Hà, (4)
Đền ơn đáp nghĩa ấy là phận con.
* Tình huynh đệ sắt son sau trước,
Phải thuận hòa từng bước thương nhau.
Khi dạo quán, lúc chơi cầu,
Tương thân anh trước, em sau nhạn hàng.(5)
Quý nhau phải như vàng, như bạc,
Tình thân thương chi khác thịt da.
* Nghĩa bằng hữu phải đậm đà,
Giúp nhau sớm tối mới là người khôn.
Phải ghi nhớ văn ôn, võ luyện, (6)
Để làm cho gia quyến rạng danh.
* Đến khi sự nghiệp giai thành,(7)
Tham gia sinh hoạt mọi ngành chuyên môn.
Rồi con phải thượng tôn luật pháp, (8)
Góp công trình báo đáp Quốc gia,
Đời con đẹp tựa cành hoa,
Gắng mà giữ lấy sơn hà Rồng Tiên.
Phải chống giặc để yên bờ cõi,
Dân tộc mình thoát khỏi xâm lăng.
Việt Nam trí tuệ, tài năng,
Tài nguyên phong phú, đồng bằng phì nhiêu.
Lời Mẹ dạy mọi điều vàng đá, (9)
Con ghi lòng, tạc dạ Mẹ ơi !!
Lời vàng con giữ trọn đời,
Để thiên hạ khỏi kẻ cười, người chê.
Tu tâm con vượt bến mê, (10)
Nguyện xin giữ trọn lời thề trước sau…

27-09-2007 TRƯỜNG GIANG

GHI CHÚ (Chỉ dành cho thanh niên không giỏi tiếng Việt)
(1) Kiên nhẫn dùng ý chí (muốn) của mình để làm một việc gì.
(2) + (3) Là câu CA DAO. Một quả núi rất cao ở Trung Quốc. (Trích từ Quốc Văn Giáo Khoa Thư Lớp Sơ Đẳng)
(3) Nơi nước từ các khe núi bắt đầu chảy ra tạo thành các con suối chảy về vùng đồng bằng. Ý nói, công nghĩa của Mẹ sinh ra con dài như một con suối vậy.
(4) Nơi có hàng tỷ ngôi sao cao nhất trong các ngôi sao.
(5) Khi một đàn nhạn bay trên không trung, bao giờ cũng có một con đầu đàn hướng dẫn rồi mới đến các con khác bay theo. Ý nói, khi anh em giắt nhau đi chơi, bao giờ anh cũng đi hàng đầu để các em theo sau.
(6) Học văn chương thì phải đọc đi, đọc lại nhiều lần mới nhớ. Học võ thì phải luyện tập ngày này qua ngày khác mới thành thạo được.
(7) Tất cả đều đã thành thạo
(8) Phải tôn trọng luật pháp của Quốc gia và phải đặt lên hàng đầu.
(9) Vàng và đá là chất cứng, rất khó thay đổi hình dạng. Lời nói của Mẹ xuất phát từ kinh nghiệm sống của Tổ tiên từ hàng nghìn năm trước truyền lại nên không sai lầm. Nó là khuôn mẫu để mọi người phải theo. Con mà không nghe lời cha mẹ thì không thể thành người tốt được.


KHÔNG CÓ LƯƠNG TRI.

(Gửi người viét không trung thực)
Kể niên kỷ nay ngoài bảy chục,
Tuổi sinh ra gặp lúc nhiễu nhương.
Khắp Miền đất nước quê hương,
Nhục vì Cộng Sản, lên đường vượt biên.
Kể sao xiết oan khiên, thống khổ,
Hết cuồng phong, lại đổ mưa giông.
Lênh đênh trời biển mênh mông,
Mười phần chết chín, cầu mong số trời.
Khi vừa thoát biển khơi sóng gió,
Lại gian lao, khốn khó đến ngay.
Sống trên hải đảo hàng ngày,
Cuộc đời chịu đủ đắng cay khốn cùng.
Rời hải đảo tới vùng đất hứa,
Dư nhân quyền, thừa mứa tự do.
Không còn khắc khoải, âu lo.
Chẳng ai bắt bớ, giày vò như xưa.
Người tị nạn sớm trưa không nản,
Vẫn kết đoàn chống nạn Cộng nô.
Khắp nơi tố cáo giặc Hồ,
Riêng bầy chó dại điên rồ sủa trăng.
Ai gây nạn đất bằng nổi sóng,
Ai nỏ mồm “Giải phóng” quê hương??
Đồng bào tị nạn bốn phương
Thảy đều lộn mửa vì phường văn nô.
Tư cách ấy côn đồ, xỏ lá,
Văn phong này đá cá lăn dưa.
Vì ham canh cặn, cơm thừa,
Tiếp tay cho giặc dối lừa đồng hương.
Truyện không có, phô trương rằng có,
Việc có thì bỏ xó một nơi.
Tự chôn thiên chức tuyệt vời,
Thì còn sống ở trên đời làm chi!!!
Việc thiên hạ càng ghi càng thối,
Càng tỏ mình bỉ ổi, xấu xa.
Khôn thì quẳng ngọn bút tà,
Để về rửa chén, quét nhà cho xong.
Nếu còn uốn ngọn bút cong,
Thì còn làm nhục Tổ Tông, họ hàng 38

TRƯỜNG GIANG

KẾT GIẢI TÂM ĐỒNG 2

Vạn trùng dương xa lìa đất nước,
Đồng hương ta cất bước lưu vong !!
Trải nhiều gian khổ, long đong
Ngày nay gia tộc thoát vòng tử sinh
Nhớ lại cảnh gia đình ly biệt,
Anh Xi Kiu, em chết Biển Đông
Con xa cha, vợ mất chồng
Ông Bà lìa cháu dứt lòng vượt biên
Chính vì lũ cuồng điên “lai giống”
Bọn hung thần ôm mộng đế vương.
Đầu trâu, mặt ngựa bất lương
Hùa nhau gieo rắc tai ương, hận thù.
Chúng là bọn đui mù, ngu ngốc,
Lúc gặp thời bàn độc nhảy lên.
Luân thường, đạo lý gác bên,
Đấu Cha, tố Mẹ vang rền oán than.
Vô tín ngưỡng, phá tan Tôn giáo,
Giết Cha, Sư, bổn đạo khắp nơi.
Giam người yêu nước, thương nòi,
Đất không dung thứ, ắt Trời không tha.
Công thương nghiệp nước nhà hoàn hảo,
Lại bày trò cải tạo dã man,
Giết người, cướp của tràn lan,
Ngày nay kinh tế vô vàn rối tơ.
Dân đã xác như vờ tan nát,
Bắt đêm ngày tụng Mác Lê Nin.
Chúng là một lũ mẹ mìn,
Lừa dân uống NGẢI BÚA LIỀM u mê
Lại bày đặt trò hề đổi mới,
Bao tài nguyên bán xổi còn đâu!
Hùa nhau vơ vét làm giàu,
Toàn dân đói rách, cơ cầu tang thương.
Nào các giới đồng hương hảo ngoại!
Nối vòng tay kết giải sắt son.
Đấu tranh một mất, một còn,
Để cho dân tộc trường tồn quang vinh.

TRƯỜNG GIANG

KẾT ĐOÀN


Việt Nam chịu quá nhiều khổ ải,
Vì Cộng nô bách hại nhân dân.
Đủ điều giả nghĩa, giả nhân,
Nhà tù san sát xa gần khắp nơi.
Dân cả nước trùng khơi vượt sóng,
Quyết tìm đường mưu sống tự do.
Dẫu còn đầy dẫy âu lo,
Luyện rèn ý chí mưu đồ viễn phương.
Đoàn kết lại đồng hương hải ngoại,
Chống Cộng nô dựng lại non sông.
Đấu tranh quyết liệt một lòng,
Cùng nhau xé bỏ cờ hồng vàng sao.
Rồi già trẻ đồng bào hạnh phúc,
Rồi gái trai ca khúc tự do.
Nắm tay cả nước hô to,
Quyết tâm vạch mặt tên Hồ Chí Minh.
Y là giống yêu tinh ác qủy,
Hút cạn dòng máu tuỷ sinh linh.
Chính y gây nạn đao binh,
Lại bày kế giết dân lành bấy nay.
Lũ em út một bầy quỷ sứ,
Uống máu người hung dữ như beo.
Toàn dân rách rưới, đói nghèo,
Bọn Trung Ương Đảng như heo tranh phần.
Lũ Cán bộ xa gần tham nhũng,
Bắt dân đen làm lụng ngày đêm.
Dân nghèo ngày một nghèo thêm,
Dưới trên Cán bộ lem nhem càng giàu.
Cả dân tộc khổ đau nhường ấy,
Đảng miệng bình không thấy, không nghe.
Kéo bè, kết đảng từng phe,
Vườn hoang múa gậy làm hề bấy nay.
Xưa bán nước cho bầy QUỶ ĐỎ,
Nay buôn nòi làm chó THỰC DÂN.
Tài nguyên đất nước xa gần,
Hùa nhau bán sạch bởi cần đô la.
Bọn đồ tể thả ga vơ vét,
Mặc dân đen đói rét lầm than.
Ớ nhà cửa, ớ giang san!
Vì đâu đất nước tan hoang não nề?
Từ đồng ruộng, sơn khê, đô thị,
Tay nắm tay hoan hỉ kết thân.
Diệt trừ giặc Cộng vô thần,
Để cho đất nước, nhân dân phú cường.
Lấy câu bẻ đũa làm gương,
Sống nhờ đoàn kết, chết thường chia phe..


TRƯỜNG - GIANG

KẺ PHÁ NGƯỜI XÂY


Trường Chinh, Lê Duẩn, Đỗ Mười,
Cũng đều dạ thú, mặt người cả thôi.
Chúng thay bậc, đổi ngôi giai đoạn,
Chó thế mèo nhàm chán đã lâu.
Chung quy vẫn lũ hoạt đầu,
Bày mưu lừa cả hoàn cầu bấy nay.
Miệng xoen xoét đổi thay kinh tế,
Lòng chứa đầy mưu kế hại dân.
Tài nguyên đất nước xa gần,
Hùa nhau phe đảng bán dần còn đâu !!
Dân lam lũ như trâu, như ngựa,
Đổ mồ hôi từng bữa thiếu ăn.
“Đảng”thì lớn nhỏ giành phần,
Túi tham vơ vét xa gần tham ô.
Ngoài miệng tụng Nam Mô chư Phật,
Mà trong lòng ních chặt dao găm.
Độc tài Đảng trị bao năm,
Đẩy dân vào chốn tối tăm đoạn trường.
Các dân tộc hùng cường tiến bộ,
Đất nước mình thống khổ triền miên.
Một bầy mặt sứa gan lim,
Tôn thờ chủ nghĩa Lê Nin lỗi thời.
Giềng mối Việt nghìn đời xóa bỏ,
Bắt toàn dân tố khổ Ông Cha.
Hô hào “giải phòng”Quốc Gia.
Mà nay tan cửa, nát nhà vì đâu?
Lũ vong bản thả câu nước đục,
Bòn rút dân còn khúc xương khô.
Đoạt Dân Chủ, cướp Tự Do,
Bắt giam Linh Mục, nhốt tù Thầy Tăng.
Tội chồng chất lá rừng khôn sánh,
Dẫu nghìn sau khôn tránh lưới giăng.
Mai đây nổi sóng đất bằng,
Gió gieo, bão gặt lẽ hằng xưa nay.
Cộng đồng Việt nắm tay đoàn kết,
Lòng chung lòng sống chết có nhau.
Đấu tranh quyết liệt năm Châu,
Lẽ thường bãi bể nương dâu rất gần.
Khi bè lũ vô thần tan rã,
Quyền của dân lại trả về dân.
Đồng hương hải ngoại xa gần,
Nhân tài vật lực góp phần chung lo.
Cùng xây dựng Tự Do, Dân Chủ,
Cùng vun bồi thói cũ lề xưa.
Vượt qua thử thách sớm trưa,
Mặc cho ngày nắng, đêm mưa không sờn.
Cùng xây dựng giang sơn gấm vóc,
Nước mạnh giàu, dân tộc hiên ngang.
Ngàn sau chói lọi sử vàng,
Việt Nam muôn thủa ngang hàng năm Châu.
Thời gian quyết chẳng còn lâu.

TRƯỜNG - GIANG.



HỢP LỰC

Nào các giới đồng hương nước Việt,
Nắm tay nhau đoàn kết một lòng.
Chúng ta giòng giống Tiên Long
Phải làm rạng rỡ con Rồng, cháu Tiên.
Kể từ buổi vượt biên tị nạn,
Khắp nẻo đường trăm vạn hiểm nguy
Biết bao thống khổ, lâm ly
Chết vì giặc biển hoặc vì phong ba.
Chồng mất vợ, con xa cha mẹ
Anh chôn em, cháu bé chôn ông.
Tiếng gào thét dậy Biển Đông,
Mịt mù oán khí, chất chồng đau thương.
Kể sao hết đoạn trường, thống thiết
Nỗi đau này oan nghiệt vì đâu?
Mở lời cáo giác năm Châu,
Cộng nô gieo thảm, rắc sầu khắp nơi.
Nay ta đã ơn Trời yên chỗ,
Hết lo điều giậu đổ, bìm leo
Từ nay dứt mọi hiểm nghèo,
Một nhà đoàn tụ sớm chiều có nhau
Đã chia xẻ mớ rau con cá,
Tình thân thương vàng đá chẳng lay.
Đồng hương hải ngoại Đông Tây,
Thành công mọi mặt đến say lòng người
Nay quốc nội ngút trời thống khổ
Kiếm nhân quyền đơm đó ngọn tre.
Tự do, hạnh phúc thảm thê,
Nước nghèo bởi một lũ hề múa may.
Dân đói rách bấy chầy hốc hác,
Suốt ngày đêm tụng Mác, Lê Nin
Toàn dân đã mất niềm tin,
Bó tay sao chịu trăm nghìn tai ương?
Nào Hải ngoại đồng hương các giới,
Nắm tay nhau còn đợi gì đây?
Hãy nhìn bó đũa trăm cây,
Hỏi ai bẻ gẫy bó này được không?
Triệu khối óc một lòng đoàn kết
Sức dời non lấp hết Biển Đông
Nhân quyền chết với non sông,
Vì dân, ta phải dốc lòng cứu nguy.
Nếu ta vẫn phân ly, riêng rẽ,
Thì Cộng nô dễ chẻ chúng ta.
Kết đoàn Hưng Đạo xông pha,
Diệt Nguyên Mông, sử chói loa nghìn sau.
Quyết tâm hợp lực cùng nhau,
Biển Đông tát cạn rồi sau vá trời
Rất mong. Mong lắm ai ơi!!

TRƯỜNG GIANG

GỬI NGƯỜI ĐỒNG CẢNH

(Tâm sự với người bạn tù Cải tạo)

Canh khuya chắp nhặt đôi lời,
Gửi người đồng cảnh một thời đau thương.
Nhện xưa, tơ cũ còn vương,
Xa xôi nghìn dặm vẫn thường nhớ nhau.
Tháng năm dù tóc pha màu,
Vẫn còn khăng khít bấy lâu nghĩa tình.
Nhớ khi lên thác xuống ghềnh,
Hiểm nguy gian khổ chúng mình có nhau.
Khi đốn gỗ, lúc chặt vầu,
Lại khi nặng nhọc thay trâu kéo cầy.
Bữa ăn ngô sắn hàng ngày,
Muối hòa tan một muỗng đầy chấm khoai.
Suốt ngày quần quật khổ sai,
Đêm ngồi viết bản tự khai hàng giờ.
Núi rừng Việt Bắc âm u,
Canh khuya giá buốt, mịt mù sương rơi.
Vạc kêu ảo não lưng trời,
Thiết tha dế cũng góp lời nỉ non.
Hòa âm tiếng vượn ru con,
Hổ gầm chưa được mồi ngon đỡ lòng.
Vừa chợp mắt đã rạng Đông,
Nỗi sầu lấy đấu nào đong cho vừa.
Trải bao ngày nắng, đêm mưa,
Khổ sai lao động đã thừa mười năm.
Cả tin nên đã mắc lầm,
Trái tim ứa máu, tím bầm ruột gan.
Hận thù giặc Cộng bạo tàn,
Mà tên Lê Duẩn dã man thượng thừa.
Bắt tù giãi nắng giầm mưa,
Ngày ba củ sắn, rau thừa cám heo.
Bụng tù lép xẹp đói meo,
Khổ sai mười tiếng vẫn đeo hàng giờ.
Chân bủn rủn, mắt lờ đờ,
Mà tay vẫn phải cuốc giơ khỏi đầu.
Nỗi riêng càng nghĩ, càng đau,
Tấm sầu càng lấp, càng sâu hận thù.
Mai đây giặc cộng đui mù,
Họa quàng cổ, luật thừa trừ chí công.
Toàn dân xé bỏ cờ hồng,
Cờ vàng ba sọc (đỏ) như rồng gặp mây.
Bốn phương tay nắm chặt tay,
Chuyên viên kỹ thuật Đông, Tây lên đường.
Kết đoàn xây dựng quê hương,
Không còn khổ ải đoạn trường như xưa


TRƯỜNG GIANG

GỬI CÂU THƯƠNG NHỚ

Nửa vòng trái đất xa vời,
Ai chia giọt nhớ, tách rời dòng thương.
Xa xôi cách trở đại dương,
Bèo trôi, mây nổi vô thường hợp tan.
Bâng khuâng nhặt chiếc lá vàng,
Gởi về bên ấy muôn ngàn xa xôi.
Vầng trăng ai xẻ làm đôi,
Nửa trong vườn hạnh, nửa rơi xuống dòng.
Mặt xa nhưng chẳng cách lòng.
Gửi câu thương nhớ theo dòng Đại dương.

TRẦN KIM HOÀNG.

BÀI HỌA

Cánh hồng bay bổng tuyệt vời
Trách ai xẻ nhớ, chia rời tình thương ...
Á Âu vạn dặm trùng dương.
Mới xum họp, đã hai đường ly tan.
Trăng Thu lặn, lá Thu vàng,
Nhớ người tri kỷ vô vàn xa xôi.
Giọt châu lã chã tuôn rơi,
Nửa tràn khóe hạnh, nửa rơi thành dòng.
Xa xôi quyết giữ một lòng,
Yêu thương gửi bạn tâm đồng... trùng dương.


TRƯỜNG GIANG

18.12.07

GIỮ ĐẠO NHÂN LUÂN

Đã sinh ra ở trên đời,
Sống cho phải đạo làm người mới khôn.
Có những kẻ bán hồn cho quỷ,
Toàn buông lời thô bỉ nhố nhăng.
Chuyên môn gây chuyện bất bằng,
Hại Ông trung hậu, bợ thằng tà gian.
Thế mà cũng xưng quan, xưng quách,
Cũng bi bô cắp sách đến trường.
Tưởng rằng thuộc loại hiền lương,
Hóa ra đem cả luân thường vùi sâu.
Không nhớ nỗi khổ đau tù ngục,
Lại quên niềm tủi nhục, đắng cay.
Toàn dân sống kiếp đọa đầy,
Nhân quyền, Dân Chủ vũng lầy “ai” chôn ??
Thân bồ tượng, trí khôn chẳng có,
Lại theo phường đơm đó ngọn tre !!
Đeo râu, vẽ mặt làm hề,
Nỡ lòng quên hết lời thề tử sanh !!
Không tận lực đấu tranh diệt Cộng,
Nhè anh em kình chống lẫn nhau.
Kẻ thù thì đội trên đầu,
Mà tình chiến hữu ra màu nhạt phai.
Sao đáng gọi là trai thời loạn ??
Vì “cái tôi” chuốc oán, gây thù !!!
Tiếng đời nguyền rủa nghìn thu,
Rằng quên nghĩa cả, đui mù hại nhau.
Nên tỉnh ngộ mau mau nghĩ lại,
Giặc Cộng nô ta phải diệt tan.
Đừng nên ăn tạp, nói gian,
Kẻo rồi chuốc họa, buộc oan vào mình.
Xưa nay những bậc cao minh,
Nhẹ câu vị kỷ, nặng tình nước non.
Sông dù cạn, núi dẫu mòn,
Nam nhi chí cả, sắt son một lòng.
Đã mang dòng máu Lạc Hồng,
Đừng quên hai chữ non sông nước nhà !!
Chớ nên nấu thịt nồi da,
“ Trai cò” lũ Vẹm bày ra giết mình.
Phải nên cân nhắc trọng, khinh
Để cho con cháu nhìn mình noi theo !!!!

TRƯỜNG GIANG

GIEO NHÂN HÁI QUẢ


* Dịch viết : “Cư kỳ thất, xuất kỳ ngôn thiện, tắc thiên lý chi ngoại ứng chi.
Xuất kỳ ngôn bất thiện, tắc thiên lý chi ngoại vi chi”
CHƯƠNG KẾ THIỆN (Minh Tâm Bảo Giám)
* Tạm dịch : Sách Kinh Dịch nói rằng : “Ở trong nhà nói điều tốt lành thì ngoài nghìn dặm cũng cũng có người hưởng ứng.
Nếu nói điều chẳng tốt lành thì ngoài nghìn dặm cũng có người chống đối.
***********************************************************************


Ở nhà lời nói ngay lành,
Dẫu ngoài nghìn dặm cũng nhanh theo cùng.
Nhược bằng lời nói tàn hung,
Thì ngoài vạn dặm, khắp vùng lánh xa.
Từ thơ ấu ê, a tập đọc,
Nay lớn khôn việc học tinh thông.
Khôn ngoan Đức Dục để lòng,
Luyện rèn tâm tính trong vòng thẳng ngay
Người độ lượng, lòng đầy quảng đại,
Đã nhập tâm phải trái bấy nay.
Lời qua miệng, gió cuốn bay, (1)
Chớp như luồng điện không quay trở về.
Dao chém đá, cá trê chui ống,
Dành cho người xuẩn động đơn sai.
Chuyên cần trí dục hôm mai,
Thiên kinh, vạn quyển dùi mài năm canh.
Đừng lấy việc công thành danh toại,
Rẻ khinh người đồng loại kém may.
Chớ nên ganh ghét tối ngày,
Hay chi độc ác như bầy hùm beo.
Lời xưa dạy : “Gió gieo bão gặt” (2)
Trước chẳng đền, sau ắt nợ thêm. (3)
Tạo ra cuộc sống êm đềm,
Để cho già trẻ ngày đêm thuận hòa...
Đó mới chính thật là quân tử,
Sẽ làm nên lịch sử huy hoàng.
Đồng thau khôn sánh được vàng,
“Đức Duy Hinh” khắp xóm làng noi theo. (4)
Không để dạ “bới bèo ra bọ”
Quên lỗi người mới tỏ lòng nhân.
Sống trong xã hội nhân quần,
Luôn luôn tương kính như tân (5) mới hào.
Phải nhớ tích đồng bào một mẹ,
Đừng quên câu gà qué chung nòi.
Xưa nay cầu bắc để noi,
Người mà ác khẩu thiệt thòi vào thân.

TRƯỜNG GIANG

GHI CHÚ : Danh cho gioi tre)
(01- Do chữ “ngôn dịch trường phi”, nghĩa làlời nói dễ dàng bay đi xa. Khi lời nói ra khỏi miệng, khó lấy lại dược
02- Làm điều tốt lành thì hưởng phúc. Làm điều độc ác thì bị trừng phạt.
03- Mình nói điều sai trái mà cứ cho là đúng
thì lương tâm mình cũng hiểu theo ý muốn của mình. Tuy nhiên còn vị Tối Thượng Linh Vị là Ông Trời (Thiên Chúa) rất công bằng, biết mình nói tốt lành thì thưởng, nếu mình nói bạc ác thì trừng phạt. Không ai lừa dối được Ông Trời.
04- Người có Đức độ tự thân mình toát ra mùi
thơm. Dù không muốn phô trương nhưng thiên hạ cũng biết sự xấu, tốt của mình.
05- Cùng tỏ lòng kính trọng như hai người khách đối với nhau (Không vồ vập, không thờ ơ)

GÁNH VÀNG ĐI CỐNG NƯỚC NGÔ


Hăm tám năm đã trôi qua,
Nhớ ngày “thống nhất sơn hà” lại đau.
Dân khắp nước nghèo, giàu khốn đốn,
Bỏ quê hương tìm chốn dung thân.
Ngoài khơi kình ngạc, sóng thần,
Trên rừng hổ, báo trăm phần hiểm nguy.
Mặc cướp biển, sá gì sinh tử,
Quyết vượt biên vì chữ Tựï Do.
Cộng nô chửi rủa hồ đồ :
“Liếm giầy đế quốc”, “ma cô”, “ngụy quyền”...
Dân tị nạn cơ duyên gặp gỡ,
Nay thành công rực rỡ mọi ngành.
Văn chương, khoa học lừng danh,
Bàn dân thiên hạ nghiêng mình hoan hô.
Bọn cuồng tín côn đồ mê muội,
Vẫn tôn thờ lũ cuội Mác, Lê...
Độc tài chuyên chính trò hề,
Bày ra “tư tưởng u mê bác Hồ”
Bộ mặt “đảng” chúng tô thật bảnh,
Bắt toàn dân trống đánh, chiêng khua.
Cầm quyền một đám già nua,
Dưới trên tham nhũng, thi đua gom vàng.
Giới trí thức thuộc hàng cự phách,
Góp lời bàn cải cách dân sinh :
“Bao năm thống nhất hòa bình,
Cớ sao để nước tan tành chẳng lo ??”
Thế là chúng gán cho phản động,
Tội tầy trời vì “chống nhân dân”
Mút mùa đầy đọa xác thân,
Biệt giam triệt hạ tinh thần đấu tranh.
Lũ chó dại nhe nanh vẫn sủa,
Vẫn tuyên truyền đao búa mị dân.
Than ôi một lũ ngu đần,
Ngồi lên hiến pháp, bất cần thị phi.
Các Tôn Giáo duy trì giềng mối,
Chúng quyết tâm giở thói gian manh.
Tạo ra “giáo hội quốc doanh”
Đạo nào chúng cũng chia thành hai phe...
Nước xơ xác thân ve mùa Hạ,
Dân đói nghèo vất vả như trâu.
Bạc vàng, xe cộ, phố lầu,
“Đảng, Đoàn” hưởng thụ ngập đầu bấy nay.
Cả nước nhục vì bầy tham nhũng,
Thế giới đều rẻ rúng cưu mang.
Bất tài tế thế, an bang,
Để cho đất nước ngày càng lún sâu.
Bộ Chính Trị gục đầu la lối,
Xin sửa sai lầm lỗi, “hoàn lương”.
Kêu gào tị nạn bốn phương
Đón mời “khúc ruột đồng hương” thăm nhà...
Về để nộp đô la cho chúng ?
Về để mà cung phụng lũ ngu ?
Đô la chúng cốt gom thu,
Phải đâu yêu mến “cựu thù” bỏ quê.
Ta chỉ gửi chút về tiền bạc,
Giúp ông bà, chú bác hàng năm.
Tiền nhiều giặc sắm dao găm,
Đô la chật túi càng làm khổ dân.
Ta thực sự góp phần giúp nước ??
Hay vô tình góp chước hại dân ??
Để cho bè lũ vô thần,
Buôn dân, phá đạo muôn phần khổ đau.
Đấu nào đong hết thảm sầu,
Vô tình để giặc đè đầu không hay... 64

TRƯỜNG GIANG


DƯỚI TRĂNG KHUYA

(Trại tù cải tạo SUỐI MÁU
Biên Hòa, tháng 10 / 1976)

Đêm khuya trăng giọi đầu thềm,
Dưới hoa lặng ngắm sao đêm sáng ngời.
Bồng bềnh theo gió mây trôi,
Mỏng như giải lụa ngang trời nhẹ bay.
Chị Hằng gương mặt thơ ngây,
Dịu dàng ẩn hiện trong mây trắng ngần.
Ánh trăng tỏa khắp xa gần,
Tơ vàng đứt, nối bóng sân nhợt nhòa
Như quên vũ trụ bao la,
Ả Hằng không chịu ló ra bầu trời.
Ghen trăng gíó thổi khắp nơi,
Xé làn mây rách tơi bời từ lâu.
Tơ trăng buông xuống địa cầu,
Cỏ cây như lại đượm màu tốt tươi.
Nhìn trăng hoa hé miệng cười,
Dường như e thẹn gặp người tình chung.
Đêm khuya sương gió lạnh lùng ,
Dế than ảo não như không dứt lời.
Vạc kêu sương ở chân trời,
Từng đàn cất cánh rã rời bay qua.
Xóm ngoài gà gáy canh ba,
Nỗi riêng luống những sót xa phận mình.
Kể từ khăn gói đăng trình ,
Một trăng đành trả nợ tình quê hương.
Nào ngờ bằn bặt tin sương,
Ai gây chi cảnh đoạn trường lắm thay!
Sớm hôm lần đốt ngón tay,
Mười con trăng tính đến nay vừa tròn.
Vợ con ngày tháng mỏi mòn,
Tin sương luống những bồn chồn đợi mong.
Canh thâu khắc khoải ngóng chồng,
Bờ mi đẵm lệ đau lòng chia phôi.
Trời làm chi cực hỡi Trời !
Phòng loan nỡ để thiệt thòi riêng ai.
Rõi mây thở vắn, than dài,
Xót người chung gối hôm mai đợi chờ.
Đau lòng thương lũ trẻ thơ,
Sớm hôm buồn tủi mong chờ phụ thân.
Trắng đêm anh thức bao lần,
Thương con năm sáu, mười phần thương em.
Bao năm hạnh phúc êm đềm,
Chăn đơn gối chiếc, giờ em một mình !!
Bao lần dưới ánh trăng thanh,
Muốn vo trái đất tan tành cho xong.
Nước đời “tội” hóa ra “công” !
Vì đâu mình phải lao lung nhường này.
Dế than ảo não canh chầy,
Như vò gan ruột, tựa giày làn da.
Nổ dòn tiếng súng xa xa,
Tim anh nhức buốt như là dao đâm.
Những mong tai điếc, miệng câm,
Không vương chước quỷ,chẳng lầm mưu gian.
Thương thân lệ những tuôn tràn,
Càng suy nghĩ lắm, càng tan nát lòng.
Tấm thân chiếc lá giữa dòng,
Nổi trôi vùi giập, đau lòng xiết bao!
Những là rầy ước, mai ao,
Chim lồng cất cánh bay cao ngút trời.
Chung lưng rửa sạch bụi đời,
Để cho khắp bốn phương trời thương nhau...60

TRƯỜNG GIANG

ĐỪNG XIẾT CỔ DÂN





Tổng thống Bush tiếp chàng Minh Triết,
Căn dặn rằng đừng xiết cổ dân.
Nhân quyền, Dân chủ rất cần,
Nghìn xưa Tạo Hóa quân phân cho người.
Ghi đáy dạ, không lời tự phụ,
Sống trên đời cần đủ tự do.
Nói cười, áo ấm, cơm no,
Quyền dân, dân được tự do mọi phần.
Ông là kẻ cầm cân, nẩy mực,
10- Dân không lo, lo mất ghế ngồi.
Từ khi thay bậc, đổi ngôi,
Lùa dân lương thiện, bắt nhồi trong lao.
Giới trí thức nhảy vào nhập cuộc,
Đòi quyền dân phải được tự do.
Tự do ngôn luận hô to,
Luật rừng xưa cũ phải cho vào thùng…
Nạn tham nhũng Nam, Trung, Bắc Việt,
Dân khốn cùng chẳng biết kêu ai.
Đoạt nhà cửa, cướp đất đai,
20- Bán cho ngoại quốc tính bài đổi trao.
Hàng Giáo phẩm đạo cao, đức trọng,
Hướng dẫn người bỏ mộng tham sân.
Lấy câu lạc đạo, an bần,
Chỉ mong bá tánh trăm phần ấm no.
Công đức ấy thực to bằng núi,
Nào phải gây buồn tủi cho dân !!
Đảng ông bội nghĩa, vong ân,
Giam người chẳng kể nhân luân, cương thường.
Muốn gia nhập thị trường buôn bán,
Luật nhân quyền nhất đán thực thi.
Nếu không, xách gói ra đi,
Nước văn minh chẳng dễ gì kết thân.
Triết nghe nói tinh thần bấn loạn,
Lòng tái tê như hoạn, quá đau.
Cũng đành bào chữa đôi câu :
Nói quàng xiên, vội “cổng sau” ra về.
Rằng nước Việt chẳng hề vi phạm,
Có bắt dân nhốt khám chi đâu ?
Lâu nay phản động ngóc đầu,
Hô hào lật đổ, cùng nhau cướp quyền.
Họ lợi dụng tuyên truyền bôi nhọ,
Bắt nhốt tù hỏi có chi sai ??
Tổng thống Bush cứ thở dài,
Buồn nôn, đành phải tính bài cười lung !!
Nghe Triết nói máu sùng nổi dậy,
Chỉ muốn phang một gậy thật đau.
“Việt Nam xã nghĩa” đứng đầu,
Nói quàng xiên, rõ thật rầu bà con...
Tôi thực hết muốn còn trao đổi,

Thì nói cùng đầu gối bấy nhiêu.
Người khôn nói ít nghe nhiều,
Nói như vẹm thế là điều trẻ con.
Triết đứng dậy hết còn bắng nhắng,
Đành “cổng sau” lẳng lặng rút ngay.
Thế là Triết chết từ nay,

Nhục nào hơn cái nhục này Triết ơi !! 56

TRƯỜNG GIANG

ĐỪNG TIN VIỆT CỘNG.



Người tị nạn bốn phương lớn nhỏ !!
Nước Việt mình khốn khổ triền miên.
Tiếng kêu thống thiết khắp miền,
Vang lời nguyền rủa bạo quyền Cộng nô.
Chúng lớn giọng bô bô giải phóng,
Đã bao năm đánh trống khua chuông.
Tối ngày ngoác họng i uông,
Tuyên truyền Dân chủ lời buông dối lừa.
Dân cả nước không chừa một giới,
Cấm không ai phản đối độc tài.
Đảng thì tác quái, tác oai,
Vườn hoang múa gậy mặc ai chê cười.
Bọn lãnh đạo mặt người dạ thú,
Đầu độc dân thuốc lú, bùa mê.
Tối ngày hạnh phúc tung hê:
“Dẫy đầy Dân Chủ, tràn trề Tự Do.
Toàn dân đã cơm no áo ấm,
Tín ngưỡng thì không cấm, chẳng ngăn.
Can gì mà phải băn khoăn,
Nên tin vào Đảng trăm phần mến thương.
Nếu coi trọng quê hương đất nước,
Thì kết đoàn giữ được biên cương...”
Toàn dân tưởng thoát tai ương,
Ngờ đâu chịu mãi đoạn trường đắng cay.
Dân cả nước hàng ngày đói rách,
Đảng bịt mồm khóa chặt thông tin.
Bắt tôn thờ Mác, Lê Nin,
Cùng “Hồ phù thủy” mẹ mìn giết dân.
Chúng là bọn vô thần sư tổ,
Hỏi công gì mà cố tôn vinh ??
Hùng Vương Quốc Tổ của mình,
Không siêng nhang khói, ra tình thờ ơ.
Các tôn giáo phụng thờ cúng bái,
Hỏi tội gì mà phải cấm ngăn ??
Tăng Ni, Linh Mục xa gần,
Không quy phục Đảng là giần nát xương.
Chúng quen thói gạt lường thế giới,
Rằng Việt Nam đổi mới khắp nơi.
Tự do, Dân chủ tuyệt vời,
Sánh cùng hồn vũ hẳn thời không thua.
Lời Việt Cộng là bùa, là ngải,
Về Việt Nam ta phải điều tra.
Thử cầm tấm bảng trưng ra :
Viết “Nông Đức Mạnh chính là phản dân”
Năm phút sau Công An đến bắt,
Giải ngay về nhốt chặt trong lao.
Rõ ràng sai đúng ra sao,
Tự Do vào khám lẽ nào ngủ mê...
Đừng tin Việt Cộng lũ hề,
“Cá trê chui ống” lời thề một xu... (1)



TRƯỜNG GIANG
(1) Tục ngữ : Thề cá trê chui ống. Nghĩa là con
cá trê chui vào đầu ống này, chui ra đầu ống
kia, không có gì ngăn cản nó. Cũng như người
không thủ tín, lời hứa vừa ra khỏi miệng đã bị gió
thổi bay đi mất hút.

ĐỨNG LÊN !!

(Để nhớ lại tội ác của Hải quân Trung Cộng đã bắn
chết 9 ngư phủ Việt Nam trong lãnh Hải Việt Nam)

Tám mươi triệu đồng bào nước Việt,
Tết đã về lòng thiệt không vui..
Cổ truyền tập tục nghìn đời,
Bị nòi Hán giập tơi bời mới đau !!
Chín ngư phủ vì đâu nên tội ?
Giặc giết bừa, xác nổi Biển Đông.
Bọn Tàu Cộng, loại sói rừng,
Không còn lý trí, điên khùng dã man.
Chúng hùng hổ bắt càn người sống,
Dùng cực hình xuẩn động điều tra.
Mưu không thiếu, mẹo có thừa,
Lập Tòa xét xử sớm trưa như tù.
Lũ Việt Cộng êm ru bất động,
Bọn vong nô ôm mộng bình an.
Miệng hô “giải phóng” nhân dân,
Nay sao ngậm miệng ngu đần chẳng can.
Bộ chính trị bạo tàn, bạc nhược,
Chỉ là quân bán nước, buôn nòi.
Đồng bào đoàn kết khắp nơi,
Quyết tâm diệt lũ hại đời, cứu nhau.
Bọn quỷ sứ ma đầu, chó ngựa,
Nuốt đô la nôn mửa như mưa.
Hành dân thống khổ sớm trưa,
Biên cương, hải đảo lại đưa hiến người.
Toàn dân hãy cấp thời hành động,
Phải quyết tâm diệt Cộng giành quyền
Nhất tề cả nước xông lên,
Để cho lừng tiếng con Tiên, cháu Rồng. 28

TRƯỜNG GIANG



ĐỒNG KHÔ HỒ CẠN.


Bốn mươi năm Thủ Chính Quyền,
Toàn là bánh vẻ tuyên truyền bịp dân.
Đồng - bào tự nguyện dấn thân,
Vùng lên đánh đuổi thực dân chạy dài.
Hùa nhau chia nước làm hai,
Đẩy dân lên đoạn đầu đài khắp nơi.
Tiếng kêu oan khuất ngút trời,
Hy sinh kháng chiến để rồi chết oan
Đảng-Đoàn phè phỡn liên hoan,
Bắt dân tù rạc lầm than, khốn cùng.
Chiến tranh phát động khắp vùng,
Tử Nam, sinh Bắc tận cùng khổ đau.
Hoàng Sa bán đứng cho Tầu,
Quên ơn Tổ Quốc mưu cầu viện binh.
Xua dân vào họa chiến chinh,
Nồi da xáo thịt tư sinh thảm sầu.
Miền Nam cưỡng chiếm chưa lâu,
Công,Thương bị đánh gục đầu khắp nơi.
Oan khiên chồng chất ngập trời,
Người thì giam giữ, gia tài tịch biên.
Bày mưu lừa gạt đổi tiền,
Nhất nguyên trao ngũ bách viên, chết người.
Quân nhân dở khóc, dở cười,
Lệnh ban ô học tập ô khơi khơi mười ngày.
Thời gian tựa áng mây bay,
Mười lăm năm lẻ không hay ngày về
Toàn dân thống khổ ê chề,
Nghìn phương xé ruột, trăm bề nạo gan.
Nhân danh Cách Mạng làm càn,
Lùa dân vào cảnh cơ hàn thảm không??
Ông mong Cách Mạng thành công,
Tiến nhanh tiến mạnh vào vòng sầu bi.
Khắp Trung, Nam, Bắc thị phi,
Sống dai như đỉa ích gì hở ông??
Bọn ông tàn phá non sông,
Trẻ già nguyền rủa Thủ Đồng đầu tiên..
Bao nhiêu của nả, bạc tiền,
Liệu ông gánh nổi tới miền Trung Xô??
Vì ông ngớ ngẩn mơ HỒ,
Ngàn sau nguyền rủa là đồ chó điên.
Triệu người bỏ nước vượt biên,,
Hồn ma đòi mạng khắp Miền quê hương.
Ông là tên đại bất lương,
Giết người, cướp của, gạt lường ác ôn.
Toàn dân thoát nạn buồn nôn,
Đồng khô Hồ cạn cùng chôn búa liềm
Ông còn sống, nhục Tô Tiên,
Toàn dân khó thoát chứng điên, bệnh khùng. !!!

TRƯỜNG - GIANG

ĐOÀN KẾT DIỆT THÙ

Kể từ buổi Miền Nam thất bại,
Lũ Cộng nô bách hại nhân dân.
Đủ điều giả nghĩa, giả nhân,
Nhà tù san sát xa gần khắp nơi.
Dân khắp nước trùng khơi vượt sóng,
Quyết đi tìm cuộc sống tự do,
Dẫu còn đầy dẫy âu lo,
Luyện rèn ý chí mưu đồ viễn phương.
Nắm tay lại đồng hương hải ngoại,
Chống Cộng nô dựng lại non sông.
Đấu tranh khắp chốn một lòng,
Cùng nhau xé bỏ cờ hồng vàng sao.
Rồi già trẻ đồng bào hạnh phúc,
Rồi gái trai ca khúc tự do.
Nắm tay cả nước hô to :
Quyết tâm vạch mặt tên Hồ chí Minh.
Y là giống yêu tinh ác quỷ,
Hút cạn dòng máu tủy sinh linh.
Chính y gây họa đao binh,
Lại bày kế giết dân lành bấy nay.
Lũ em út một bầy quỷ sứ,
Uống máu người hung dữ như beo.
Toàn dân rách nát đói nghèo,
Bọn Trung ương đảng như heo tranh phần.
Lũ cán bộ xa gần tham nhũng,
Bắt dân đen làm lụng khổ sai,
Gầm trời có một không hai,
Nhân quyền “đảng” quyết tính bài chôn sâu.
Cả dân tộc khổ đau nhường ấy,
Đảng bịt tai không thấy, không nghe.
Kéo bè, kết đảng từng phe,
Vườn hoang múa gậy làm hề bấy nay.
Trước bán nước cho bầy quỷ đỏ,
Nay buôn dân làm chó thực dân.
Tài nguyên đất nước xa gần,
Hùa nhau bán sạch bởi cần đô la.
Bọn đồ tể thả ga vơ vét,
Mặc dân đen đói rét lầm than,
Ớ nhà cửa, ớ giang san,
Vì đâu đất nước tan hoang nhường này ??
Phải vùng dậy đừng say ngủ mãi,
Diệt giặc Hồ ta phải quyết tâm.
Dù cho nắng giãi mưa giầm,
Cũng không tha giống thú cầm Cộng nô
Nếu còn huyền thoại giặc Hồ,
Thì còn máu đỏ, xương khô ngập đồng
.


TRƯỜNG GIANG

ĐIÊU NGOA.

(Gửi người nói sai sự thật)

Xưa nay ngậm máu phun người,
Miệng ta dơ trước, kẻ cười mình sau.
Trách những gã to đầu mà dại,
Vì cái mồm mang hại vào thân.
Sao không uốn lưỡi bảy lần,
Lỡ lời khó gượng, phải cần đắn đo.
Chuyên bịa đặt, giở trò bôi bẩn,
Quả là phường thiển cận, trẻ con.
Lẽ thường quá giận mất khôn,
Dùng lời dơ dáy, buồn nôn chửi người..
Toàn những truyện mười mươi bịa đặt,
Buộc tội người khe khắt bâng quơ.
Tội mình như nước vỡ bờ,
Mà sau gáy lại không sờ thử coi!!
Người chống Cộng suốt đời gian khổ,
Vì đồng bào mấy độ cực thân.
Đấu tranh đòi lại quyền dân,
Phải đâu sỏ, nọng giành phần hơn thua.
Ba vạn bạc đã mua danh dự,
Chẳng giữ gìn lại tự bán rao.
Không tranh đấu với đồng bào,
Lại còn đánh phá tào lao nực cười.
Đen đầu thế cũng người ăn học,
Lại đặt điều bới móc lăng nhăng.
Ông không thích, muốn gọi thằng,
Chỉ vì tráo trở, nhập nhằng chuột, dơi.
Đã quên buổi trùng khơi vượt sóng,
Chỉ vì không thể sống cùm gông.
Chẳng còn nghĩ đến non sông,
Đồng bao quằn quại trong vòng lao nô.
Đã sấp mặt tôn Hồ quốc tặc
Lại gục đầu thờ giặc Cộng nô
Bạn đánh phá, địch hoan hô,
Đâm thuê chửi mướn, ma cô một phường.
Khi đã bị đồng hương vạch mặt,
Thì cả đàn chuột nhắt rúc hang.
Khôn thì đừng phá xóm làng,
Kẻo rồi ma dại, thân tàn có khi ...
Vắt tay lên trán mà suy !!! 39



TRƯỜNG GIANG

DẤU MẶT TRÁ HÌNH

Hồ chí Minh chuyên nghề phản bội,
Suốt cuộc đời lừa dối, gian manh.
Giết người, ẩn tích mai danh,
Trúc sơn chép tội rành rành còn đây.
Tưởng y cũng là tay cách mạng ,
Vì nước nòi lập đảng cứu dân.
Ngờ đâu ăn bả vô thần,
Mác Lê chủ nghĩa cam thân tôi đòi.
Hắn cũng vốn thuộc nòi khoa bảng,
Lại mở lời nhạo báng tiền nhân. (A)
Lừa thầy, phản bạn xa gần,
Chôn vùi đạo lý, chẳng cần nhân luân.
Y thuộc loại bất nhân, ác qủy,
Bán anh em đồng chí không tha. (B)
Bề ngoài đội lốt Quốc Gia,
Mà trong làm mọi cho Nga vô thần.
Nhớ lại thủa cầm cân nẩy mực,
Rước Pháp vào áp bức nhân dân. (C)
Miệng hô đoàn kết tương thân,
Lòng mưu tiêu diệt Quốc Quân rành rành. (D)
Việc ruộng đất thực hành cải cách, (Đ)
Cả triệu người hồn phách lìa thân.
Khắp nơi quy định thành phần,
Địa, Hào, Trí, Phú là giần nát xương. (G)
Dân uất ức xuống đường phản đối,
Đẩy GIÁP ra xin lỗi nhân dân. (H)
Đủ điều giả nghĩa, giả nhân,
Gian ngoan như vậy, Thánh Thần nào tha!!
Công Thương nghiệp nước nhà lạo thảo,
Cũng bày trò cải tạo triền miên.
Giết người cướp của nhãn tiền,
Hận thù dậy đất, oan khiên ngút trời.
*- Y tuyên bố đổi đời là trọng,
Sống độc thân hoạt động mới hăng. (I)
Nào ngờ thú tính lăng nhăng,
Vợ Tàu, Nga, Pháp trẻ măng một bầy. (K)
Bao tật xấu tháng ngày ém nhẹm,
Vẫn nỏ mồm lem lém, ba hoa.
Vợ đồng chí cũng không tha (L)
Bất nghì quen thói ranh ma nực cười.
Đã báo giặc bắt người đồng chí (M)
Để dễ bề hú hí gian dâm.
Lời kêu cứu, tiếng thét gầm,
Ma vương cũng phải tím bầm ruột gan.
Tự viết sách khoe toàn việc tốt,
Qủy Sa Tăng đội lốt Phật Thiền
Tác quyền ghi mạo DÂN TIÊN (N)
Để lừa thiên hạ khắp Miền điểm tô.
Bộ mặt thật giặc Hồ là thế,
Đuôi cáo chồn biết để nơi mô ?
Bắt dân thờ phụng Liên Xô,
Quyết không ai khác tên Hồ Chí Minh.
Xác giam ngục Ba đình lạnh lẽo,
Chờ đến ngày dân xẻo thịt da.
Ngày tàn Cộng Sản không xa!!!!...

TRƯỜNG GIANG

GHI CHÚ : (Chỉ dành cho giới trẻ mà thôi)

(A)- Thời kháng chiến chống Pháp, khi đi qua Đền Kiếp Bạc -nơi thờ Đức Thánh Trần Hưng Đạo, Hồ đã sáng tác bài thơ với lời lẽ đầy xấc xược :
“Bác anh hùng, tôi cũng anh hùng,
Tôi Bác cùng chung một tấm lòng.
Bác chống quân Nguyên thanh kiếm bạc,
Tôi trừ giặc Pháp ngọn cờ hồng.
Bác đưa một nước qua nô lệ,
Tôi dắt năm châu đến đại đồng.
Bác có anh linh cười một tiếng,
Phù cho thống nhất Bác Nam Trung.
(B)- Năm 1925, khi Cụ Phan Bội châu từ Liễu Châu (Trung Hoa) về Hồng Kông dự họp, Hồ đã cùng với Lâm đức Thụ, đã báo cho Pháp bắt Cụ Phan để nhậïn thưởng 10 vạn tiền Đông Dương . (No More Việt Nam - Richard Nixon)
(C)- Sau khi Việt Minh ký Hiệp Định Fontainebleau. Quân Pháp được đổ bộ vào Bắc Việt. Ngày 19-5-1946 chúng phải kéo cờ khắp nơi đón quân Pháp. Dân chúng phẫn nộ, Hồ phải tuyên bố ngày 19-5 là ngày sinh nhật của Hồ nên phải cắm cờ mói làm dịu được lòng dân.
(D)- Khi các Đoàn Quân của :
* Việt Nam Cách Mệnh Đồng Minh Hội của cụ Nguyễn Hải Thần, Vũ Hồng Khanh
* Việt Nam Quoc Dân Đảng của Nguyễn tường Tam
Từ Trung Hoa kéo về nước, Hồ đã cho phục kích tại biên giới Viêt Trung để tiêu diệt
(Đ + G + H)- Trong các đợt cải cách ruộng đất năm 1953-1956, hàng trăm ngàn đồng bao cả nước bị Hồ Chí Minh quy định thành phần oan ức và bị xử tử, trong đó có bà Nguyễn Thị Năm (Tức Cát Thành Long) là Chủ đồn điền đã che dấu cho Chinh Phủ
Kháng Chiến trong suốt thời gian Pháp mở chiến dịch CAO BẮC LẠNG. Một số trong những người này là cha mẹ hoặc thân nhân của Bộ Đội mà Võ Nguyên Giáp lúc đó còn là thần tượng của Quân Đội, nên Hồ chí Minh đã cho Giáp ra xin lỗi đồng bào. Vì thế vụ này mới được tạm yên.
(I + K) Hồ tuyên bố không muốn lấy vợ để có thì giờ hoạt động cứu nước nhưng y có rất nhiều vợ như :
* Năm 1926, Cưới Tăng Tuyết Minh (có vợ chồng Chu Ân Lai tham dư).
* Năm 1930, khi Nguyễn Thị Minh Khai làm việc với Hồ thì y bỏ Tăng Tuyết Minh
* Năm 1934, cùng với Nguyễn thị Minh Khai đi Nga với danh nghĩa vợ Chồng.
* Năm 1937, khi Hồ bị bắt, ra tòa Hồng Kông, Tăng tuyết Minh có đến thăm nhưng không để cho Hồ trông thấy mặt. (No More Việt Nam - Richard Nixon)
* Hồ chí Minh đã ăn nằm với Nguyễn Thị Minh Khai vợ của Lê Hồng Phong, đồng chí của Hồ.
(L + M)- Khi hoạt động ở Thái Lan, đã báo Pháp bắt Hồ Tùng Mậu để gian dâm với vợ ông này là bà Đặng Quỳnh Anh.
(N)- Hồ đã có 145 tên và bí danh nhưng không nổi
tiếng bằng hai tên NGUYỄN ÁI QUỐC & HỒ CHÍ MINH. Năm 1925, sau khi cùng với Lâm Đức Thụ báo Pháp bắt cụ Phan Bội Châu tại Liễu Châu, tên Nguyễn Ai Quốc bị mang tiếng quá nhiều nên HỒ không dùng tên này nữa mà chỉ dùng tên HỒ CHÍ MINH.
Tự viết 2 truyện “Vừa đi đường vừa kể truyện” + “Đời hoạt động của Hồ Chủ Tịch” ø ký bút hiệu là Trần Dân Tiên và T.Lan (là 2 trong số 145 bí danh nêu trên)
HồChí Minh đã 5 lần khai nam sinh khác nhau :
* Năm 1890 : Trần dan Tien
* Năm 1891 : Yên Sơn
* Năm 1892 : Làm đơn xin học ở Marseille Pháp
* Năm 1894 : Khai với Cảnh Sat Paris
* Năm 1895 : Khai với Sú quan Nga ở Berlin để đi học.
























(L + M)- Khi hoạt động ở Thái Lan, đã báo Pháp bắt Hồ Tùng Mậu để gian dâm với vợ ông này là bà Đặng Quỳnh Anh.
(N)- Hồ đã có 145 tên và bí danh nhưng không nổi
tiếng bằng hai tên NGUYỄN ÁI QUỐC & HỒ CHÍ MINH. Năm 1925, sau khi cùng với Lâm Đức Thụ báo Pháp bắt cụ Phan Bội Châu tại Liễu Châu, tên Nguyễn Ai Quốc bị mang tiếng quá nhiều nên HỒ không dùng tên này nữa mà chỉ dùng tên HỒ CHÍ MINH.
Tự viết 2 truyện “Vừa đi đường vừa kể truyện” + “Đời hoạt động của Hồ Chủ Tịch” ø ký bút hiệu là Trần Dân Tiên và T.Lan (là 2 trong số 145 bí danh nêu trên)
HồChí Minh đã 5 lần khai nam sinh khác nhau :
* Năm 1890 : Trần dan Tien
* Năm 1891 : Yên Sơn
* Năm 1892 : Làm đơn xin học ở Marseille Pháp
* Năm 1894 : Khai với Cảnh Sat Paris
* Năm 1895 : Khai với Sú quan Nga ở Berlin để đi học.

ĐẤT KHÁCH QUÊ NGƯỜI


Lìa Tổ-Quốc, tha phương đất khách,
Vẫn hướng về thành quách biên cương.
Kể từ lướt sóng đại dương,
Kình ngư hăm dọa, giặc thường bủa vây.
Ý đã quyết không thay ước hẹn,
Giữ lòng trung sau chén ly bôi.
Cộng nô phá nát giống nòi,
Thị - thành xơ xác, núi đồi tan hoang.
Dân cả nước kinh hoàng chạy trốn,
Vạn hiểm nguy khốn đốn ngày đêm.
Dân đang hạnh phúc ấm êm,
Chúng gieo thảm họa, chất thêm hận thù.
Lũ qủy sứ đui mù bất chánh,
Bỏ luân thường xa lánh sử kinh.
Buôn non Độc Lập, Hòa Bình,
Khiến xương lấp núi, máu dềnh ngập sông.
Khắp thành thị, ruộng đồng oán ghét,
Chờ thời cơ phán xét nghiêm minh.
Gío gieo, bão gặt rành rành,
Tự nghìn xưa luật Thiên Đình chí công.
Nòi Lạc Việt cùm gông phá vỡ,
Cuốn Sử vàng rờ rỡ nghìn trang.
Trần gian chi khác Thiên Đàng,
Thế cờ quyết hẳn bốn phương đổi màu.
Lũ Việt Cộng bấy lâu phản bội,
Phải gục đầu nhận tội giết dân.
Diệt tan bè lũ vô thần,
Để cho dứt họa vô luân Hoàng Sào. (1)
Tám mươi hai triệu đồng bào,
Xiết vòng tay chặt, cất cao lời thề.
Giải trừ chủ nghĩa Mác Lê,
Để nòi Việt hết trăm bề khổ đau.
TRƯỜNG GIANG.


(1)Một lãnh tụ nông dân khởi loạn thời Đường Hi Tông bên Tầu, đã đánh chiếm các tỉnh Hànam, Giang nam, Phúc kiến và Lạc Đương,và văy kinh đô Trường an. Sau vì làm mất lòng Tướng sĩ, bị thủ hạ giết chết

BÚA THIÊN LÔI.


Lưỡi búa Thiên Lôi bửa xuống đầu,
Những quân mặt ngựa, loại tai trâu.
Theo voi hít bã phường dơ dáy,
Ngửi đóm ăn tàn, lũ bọ sâu.
Dân tộc lầm than sao chẳng đoái?
Cộng nô tàn ác, lại toan chầu.
Ngửa tay nhận những đồng tiền máu
Liêm sỉ con người, họ để đâu?

TỪ PHONG.

BÀI HỌA

Tạo hoá ban cho một cái đầu,
Đâm càn, húc bậy tựa loài trâu.
Luận bàn mách qué toàn suy cạn,
Viết lách quàng xiên chẳng nghĩ sâu.
Giống mẹ : ba que chuyên vái lạy,
Nòi cha : xỏ lá rặt van chầu.
Đồng hương tranh đấu, thì dè bỉu,
Giặc Cộng tan rồi biết chạy đâu??

TRƯỜNG GIANG.

BỌN VONG NÔ


(Tứ Thủ Liên Châu)

Bè lũ Cộng nô chẳng sửa mình,
Khư khư ôm lấy tượng Hồ tinh.
Gục đầu quy phục Ma Lăng Cốp,
Sấp mặt tôn sùng Xít Tạ Linh.
Cưỡng ép toàn dân thờ Các Mác,
Dọa hù cả nước cúng Lê Nin
Cha căng, chú kiết siêng van vái,
Bỏ Tổ Hùng Vương, phá Miếu Đình.

Đình Chùa hoang phế khắp xa gần,
Dẹp hết bàn thờ để chứa phân.
Tượng Phật vất nghiêng trong xó bếp
Ngai Thần lật ngược ở ngoài sân.
Thủy Hoàng chịu kém mưu vô đạo,
Ngụy Đế cam thua chước bất nhân.
Định luật gió gieo thì bão gặt,
Quyết không còn đất để dung thân.

Thân Nga vừa đấy, lại thân Tầu,
Tráo trở lừng danh nhất Á, Âu.
Ban sáng tung hô phe hiếu chiến,
Buổi chiều đả đảo nhóm diều hâu.
Liên Xô quát tháo cam quỳ gối,
Trung Quốc hăm he chịu gục đầu.
Thân phận tôi đòi không biết nhục,
Lại còn ngang ngược với năm Châu.

Năm Châu phỉ nhổ bọn vong nô,
Đầu Đảng gian manh chính “ rợ Hồ”
Văn hóa rập khuôn như Hán, Mãn,
Quốc hồn theo mẫu tựa Trung, Xô.
Độc quyền sản xuất, dân xơ xác,
Liên kết kinh doanh, nước vật vờ.
Bán sạch tài nguyên, vàng ních đẫy,
Rõ ràng Bác-Đảng lũ ma cô.

TRƯỜNG GIANG

BỐN PHƯƠNG ĐÓN TẾT

BÀI XƯỚNG

Bốn Phương đón Tết trãi hồn thơ,
Gởi gấm thương yêu thật khó ngờ!
Khí thế Thi Đoàn đà đạt mộng,
Tinh thần mặc khách mãi vươn mơ.
Khai trương mạng lưới, gìn văn hóa,
Khởi xướng web site, giữ ngọn Cờ!
Góp bút lưu danh Dân Tộc Việt,
Bắc cầu Dân Chủ thỏa mong chờ!

Joseph Duy-Tâm

BÀI HỌA

Đón tết: Bốn Phương gửi ý thơ,
Tình thân đằm thắm khó ai ngờ.
Câu Văn thăm hỏi êm như mộng,
Bài Phú chào mừng dịu tựa mơ.
Xây dựng Nhân Quyền ngời sắc áo,
Vun bồi Dân Chủ, rạng màu cờ
Nghìn sau vang dội nòi Viêm Việt,
Hậu duệ Hùng Vương khỏi đợi chờ.

TRƯỜNG-GIANG

BỌN PHƯỜNG CHÈO.


Đỗ Mười sắp chết đứa nào thay ?
Hay lại trưng ra lũ mặt dầy.
Dốt nát chương trình đều vá víu,
Ngu đầy kế hoạch rặt loay hoay.
Tham quan vẫn cứ tăng đầy dẫy,
Ô lại nào đâu giảm mảy may.
Đổi mới bầy mưu rồi mới đổi,
Đứa chuyên nghề cuốc thế tên cầy.

Đứa chuyên nghề cuốc thế tên cầy,
Chức trong, quyền cao nó đắm say.
Bạc nén vơ càn từ “chốn ấy”
Vàng thoi cướp giật tự “nơi này”
Gia quy chắp nối toàn đi mượn,
Quốc Pháp lăng nhăng thẩy hỏi vay.
Đất nước xác xơ, dân đói rách,
Chung quy chỉ tại lũ ăn mày...


TRƯỜNG GIANG



BỌN GẠT LƯỜNG

Lường gạt Đông Tây đã tiếng đồn,
Nhổ ra, liếm sạch, thật buồn nôn.
Phân gà xúi trẻ, phường rồ dại,
Bã mía theo voi, lũ ác ôn.
Bán nước, linh hồn sao nỡ lấp ??
Buôn dân, thể xác cũng đành chôn !!
Quên mình con cháu nòi Âu Lạc,
Đất Tổ, Quê Cha chẳng bảo tồn.

Bảo tồn Các Mác với Lê Nin.
Ác quỷ, sa tăng, giống mẹ mìn.
Giết hại đồng bào, già vẫn nhớ,
Cứu nguy dân tộc, trẻ không tin.
Vun bồi đất nước, công vài chục,
Giải phóng quê hương, tội chín nghìn.
Bản Giốc, Hoàng Sa dâng giặc Bắc,
Nghìn sau Việt Sử rõ như in.

TRƯỜNG GIANG

BỎ MỒI BẮT BÓNG

Mươi tuần cơm lính đáng bao nhiêu?
Sao dám ti toe uống thuốc liều.
“Chủ tịch lố lăng” nhiều kẻ ghét,
“Chuyên gia cà chớn” mấy người yêu.
Trung thành bán xổi, chuyên bày kế,
Chính nghĩa buôn non, thích đặt điều.
Yêu nước thế ư ? Tên xỏ lá!!
Theo voi hít bã, xách nồi niêu.

Khỉ không ra khỉ, người không người,
Hỗn xược xem ra chỉ một ngươi.
Mạnh miệng cắn càn như chó dại,
Nỏ mồm sủa bậy tựa đười ươi.
Công danh buổi trước mua hàng triệu,
Địa vị hôm nay bán chỉ mười.
Bắt bóng, bỏ mồi ai xúi dại ??
Mỏ vàng thì bỏ, c. . t” ham bươi!!!!

Anh Hai CÀ CHỚN


BIẾT TỘI CHƯA ?

Ở xứ “an nam” có ĐỖ MƯỜI,
Nửa người, nửa ngợm, nửa đười ươi.
Khẩu xà,chuyên nói lời tâm Phật,
Dạ thú,thường tô nét mặt người.
Cướp của, khác chi loài nuốt sống,
Giết người, y hệt giống ăn tươi.
Oan khiên chồng chất mờ sông núi,
Chặt trúc Nam Sơn chép tội ngươi.

Tội ngươi chồng chất ngút trời cao,
Sông núi rền vang tiếng thét gào.
Cải cách Nông trường, dân thống khổ,
Đổi thay Công nghiệp, nước lao đao.
Giam cầm hiền sĩ còn vênh váo,
Bắn giết lương dân vẫn tự hào.
Đã biết tội chưa tên phá nước?
Mai này khôn thoát họa gươm đao.

TRƯỜNG GIANG.

BI THƯƠNG

BÀI XƯỚNG

Chập chờn thao thức suốt canh trường,
Rảo bước hiên ngoài tưởng cố hương.
Gió rét lòn qua rèm cửa lạnh
Trăng ngà đổ xuống đóa hoa hường.
Hột sương móc lệ treo vành lá,
Tiếng chó tru đêm sủa cuối đường.
Cám cảnh se lòng tuôn mấy vận
Ngại người chẳng đọc chuyện bi thương !

San Jose, June 4/2006
ĐÔNG THIÊN TRIẾT

BÀI HỌA

Thân gái canh khuya bước dặm trường,
Ngậm ngùi đất nước, xót quê hương.
Ước trao bạn cũ mươi giò huệ,
Mong tặng người xưa chục đóa hường.
Xơ xác hàng xoan nơi cuối xóm,
Ủ ê rặng liễu ở đầu làng,
Sương đêm trĩu nặng trên cành lá,
Ly biệt trời ơi !! quá nhớ thương.

6-6-2006
TRƯỜNG GIANG

BỂ DÂU

Mai nở hai mùa chửa gặp nhau
Lựa vần tôi gửi Bác đôi câu
Bác ngâm câu phú càng thêm hận
Tôi vịnh bài thơ để bớt sầu
Vườn Bác thay quyền vừa mới đó
Nhà tôi đổi chủ đã từ lâu
Gửi người tri kỷ niềm tâm sự
Để khắc vào tim chữ bất cầu

Bất cầu quyền lợi, bất cầu danh
Chỉ muốn quê hương được tốt lành
Độc Lập : oán than trùm đất rộng
Tự Do : thống khổ ngút trời xanh
Vượt biên cả nước, xương đầy biển
Cải tạo toàn dân,máu ngập thành
Thế giới loài người đều ngoảnh mặt
Trách gì con Tạo khéo đành hanh

BÀI HỌA
Giao hưởng tâm đồng cách cảm nhau,
Tương hằng thanh khí đẹp tròn câu.
Thương tình Ngũ Tử chồng cao hận,
Cảm nghiã Bao Tư chất nặng sầu.
Đất Thuấn mưa hòa dân đợi mãi,
Trời Nghiêu đất thuận chúng chờ lâu.
Thời suy quỷ lộng đầy tang tóc,
Khiến cảnh đình lan hóa bể dâu.

HÀ BỬU PHÁT (Cần Thơ)


BẦY QUỶ ĐỎ

Trung Ương Việt Cộng lũ cuồng ngông,
Tội ác gây ra đã chất chồng.
Tên Duẩn (1) giết người khoe lắm kế,
Gã Khu (2) tố bố nói nhiều công.
Thọ (3) vằm dân Huế xương đầy ruộng,
Dũng (4) chặt người Nam máu ngập đồng.
“Giải phóng” toàn dân khăn gói chạy,
Tránh tù cải tạo,thoát cùm gông.

Cùm gông kìm kẹp mãi dân ta,
Bởi cướp hung nô, giặc quỷ tà.
Phá nước xử xanh còn mãi chép,
Tàn dân bia miệng khó bề tha.
Cương thưòng băng hoại con đâm bố,
Đạo nghĩa suy vi cháu đập bà.
Xã hội đảo điên vì giặc Cộng
Vùng lên đánh dẹp lũ yêu ma !!

TRƯỜNG GIANG

GHI CHÚ :
1- Lê Duẩn,Tổng Bí Thư Đảng cộng Sản Việt Nam.
2- Đặng Xuân Khu,Tổng Bí Thư Đảng Cộng Sản Việt Nam và
Chủ Tịch Quốc Hội Cộng sản Việt Nam
3- Lê Đúc Thọ,Trưởng Ban Tổ chức Trung Ương.
4- Văn Tiến Dũng, Đại Tướng Quân Đội cộng sản Việt Nam

BẤT HIẾU

Bác sĩ Nguyễn Khắc Viện, con trai Cụ
Nghè Nguyễn Khắc Niêm (Án Sát). Viện là bạn học
với Thạc Sĩ Triết Học Trần Đức Thảo. Cả hai đều là Đảng
viên Đảng Cộng Sản Pháp, đã gặp Hồ Chí Minh khi họ Hồ qua
Pháp kýTạm Ước 6-3-1946. Mặc dù biết Đảng Cộng Sản giết cha
mình vì tội làm quan thời Pháp thuộc, VIỆN vẫn rủ TRẦN ĐỨC THẢO
từ Pháp về phục vụ dưới trướng họ Hồ. Vợ Thảo tố cáo chồng chống Đảng
CSVN và xin ly hôn. VIỆN lấy bà này làm vợ. Sau năm 1954, họ đều bị thất
sủng vì tư tưởng trí thức nửa mùa, trở nên chống đối Đảng CSVN vì không được
trọng dụng bằng những bọn chỉ đáng là học trò mình như : Cù Thị Hậu, Nguyễn Thị
Hằng, Nguyễn Thành Lê, Cù Huy Cận, Trần Trọng Tân, Hồng Hà và ngay cả đến tên
cò mồi Bùi Tín cũng còn nhỉnh hơn các ông VIỆN và THẢO một bậc
(Truyện Thâm Cung Dưới Triều Đại Hồ Chí Minh, Trang 210)


1- Cụ Án NIÊM ơi có não lòng ??
Khi nghe tên VIỆN mắng cha ông.
Sinh trai nhờ cậy ngày lưng mỏi,
Đẻ gái trông mong buổi gối còng.
Những tưởng thành danh thì nhớ hiếu,
Nào ngờ nên phận lại quên công.
Sao không bóp mũi khi sinh nở,
Loại chó cong đuôi, mới khỏi tròng .

2- Cái tròng nghiêm khắc lẽ xưa nay,
Bất hiếu thì mang họa có ngày.
Nghiã Mẹ sinh thành, con bướm lượn,
Công Cha dưỡng dục, cái ong bay.
Ngược dòng bơi lội, ôi đầu rỗng,
Xuôi mái a dua, quả mặt dày.
Bác Đảng thương gì loài chó ghẻ,
Vắt chanh bỏ vỏ thế là may !!!

TRƯỜNG GIANG

BÁT CƠM PHIẾU MẪU


(Kính tặng anh Văn Đình Khương, người đã
giúp đỡ em trong 12 năm rưỡi bị tù Đảng
Cộng sản Viet Nam cầm tù cải tạo)

Mười sáu năm trường cách biệt nhau
Trăm thương, nghìn nhớ đội trên đầu
Miếng cơm chia xẻ niềm cay đắng
Manh áo cưu mang nỗi thảm sầu
Lệ chảy đôi dòng luôn khắc lậu
Tơ vò chín khúc suốt canh thâu
Bát cơm Phiếu Mẫu chưa đền tạ
Ân nghĩa Đông Tề vẫn khắc sâu

Khắc sâu trong dạ chữ ân tình
Muôn tạ ơn người đã tái sinh
Lúc đói cháo rau bằng nén bạc
Khi no yến tiệc chỉ đồng trinh
Bát cơm Phiếu Mẫu tươi màu cúc
Manh áo Lưu Bang thắm vẻ quỳnh
Bố đức chẳng ai cần báo đáp
Nhưng người thụ hưởng phải tôn vinh

TRƯỜNG GIANG

BAO GIỜ


Chúng ta đã có Nguyễn Khoa Nam,
Nước mất là thôi, sống chẳng kham.
Thương những tên hèn tuyên bố láo,
Ghét ba thằng hỗn nói năng xàm.
Lăng nhăng vỗ ngực ta làm lớn,
Lui lủi quỳ chân hắn lại ham.
Cứ thấy sự đời mà phát ngán,
Bao giờ cho hết lũ gian tham.

HUỆ THU

BÀI HỌA

Sử vàng ghi chép tướng Khoa Nam,
Thành mất hy sinh vẫn cứ kham.
Hận lũ “giếng khơi” toàn lếu láo,
Thù phường “bàn độc” rặt ba xàm.
Công danh xế bóng sao còn tiếc,
Sự nghiệp về chiều lại cố ham.
Lợm giọng phải nhìn quân cẩu trệ,
Đã gươm kề cổ , cớ sao tham ??

TRƯỜNG GIANG

BÁNH XE LỊCH SỬ


Cổ nhân đã dạy nhất thời quan
Vạn đại vi dân há phải bàn
Khi nắm quyền hành đừng xảo quyệt
Lúc buông uy lực mới bình an
Thương dân ắt hẳn quên mình rét
Yêu nước cho nên nhớ kẻ hàn
Đồng, Duẩn, Mười, Khu, Anh, Kiệt, Thọ
Miệng đời nguyền rủa động không gian!!!

Rủa động không gian lũ cáo già
Tiếm quyền nấu thịt mượn nồi da
Tôn thờ Các Mác, loài ma xó
Phụng tự Lê Nin, giống quỷ tà
Lê Duẩn dâng càn miền Cẩm Địa (1)
Phạm Đồng hiến bậy đảo Hoàng Sa (2)
Quốc Hồn phẫn nộ đang gầm thét
Tam tộc chu di bọn chó gà

TRƯỜNG GIANG

GHI CHÚ :
1- Lê Duẩn hợp đồng để Liên xô xử dụng Hải cảng Cam Ranh,
nhằm chế ngự Hải quân Hoa Kỳ tại Thái Bình dương.
2- Phạm văn Đồng ký văn thư gửi Chu Ân Lai, Chủ Tịch Quốc
vụ viện chính Phủ Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa, xác nhận
Quần Đảo Hoáng Sa thuộc lãnh Hải của Trung Quốc

BẠN THƠ

Dẫu trải bao thu lá rụng rồi,
Bạn thơ vẫn giữ mãi trong tôi.
Ai đem thước bạc đo lòng đất,
Mình mượn nghiên son vẽ ý trời.
Chấp nhận vô thường than ngắn ngủi,
Bất bình định luật ước xa xôi.
Nước trong lắm cá không ưa thích,
Ngòi bút thi nhân mãi nhớ đời.

THÍCH THIỆN LINH (CT)

Trời đầy xuống thế tự lâu rồi,
Thi nghiệp không rời bạn với tôi.
Ngọn đuốc Nho phong lòa mặt đất,
Vần thơ Chính khí ngút lưng trời.
Sân Trình vắng kẻ mê danh lợi,
Cửa Khổng thưa người hám chuối xôi.
Hàn mặc đã duyên nên gắn bó,
Thơ văn xướng họa gửi cho đời.

TRƯỜNG GIANG

BÁN RẺ LƯƠNG TÂM


Lương tâm chôn lấp dưới đường mương,
Tính kế bày mưu để gạt lường.
Sáu chục Xuân dư toàn bất nghĩa,
Ba mươi năm chẵn rặt vô lương.
Máu hồng Ất Mão (1) tràn rừng núi,
Xương trắng Mậu Thân (2) ngập chiến trường.
“Giải phóng” nhân dân, dân chạy trốn,
Huênh hoang, bẻm mép cứu quê hương...

Quê hương tan nát biết chăng ai ???
Chẳng lẽ tang thương mãi kéo dài !!!
Rừng núi bạt ngàn, buôn lén lút,
Tài nguyên phong phú, bán công khai.
Cương thường băng hoại vì chuyên chính,
Phong hóa suy vi bởi độc tài.
Hỡi bọn vong nô mau xám hối,
Kẻo về âm phủ hết cung khai...

TRƯỜNG GIANG
(1) Năm 1975, ngày Việt Cộng cưỡng chiếm Miền Nam.
(2) Năm Việt cộng đồng loạt tấn công các tỉnh Miền Nam Viet5 Nam, tham Sát và chôn tập thể 5,000 quan dân tại thành phố Huế